CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN TRONG CHĂM SÓC
SỨC KHỎE SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN VÀ THANH NIÊN
Bài viết được biên soạn bởi GS.TS.BS Cao cấp Cao Tiến Đức
-
Tổng quan các rối loạn tâm thần ở vị thành niên và thanh niên
Sức khỏe tâm thần không chỉ là không mắc bệnh lý tâm thần, mà đó là trạng thái mà cá nhân có thể thực hiện năng lực của mình, có thể thích nghi với những áp lực bình thường trong cuộc sống, làm việc hiệu quả và có thể đóng góp cho cộng đồng.
Rối loạn tâm thần là tình trạng bất thường đủ nghiêm trọng về nhận thức, điều hòa cảm xúc, hay hành vi của một người; gây ra đau khổ hay mất khả năng trong công việc và hoạt động xã hội quan trọng khác.
Khi trẻ vị thành niên và thanh niên đến khám hoặc tư vấn về sức khỏe sinh sản, chúng ta có thể gặp những người có vấn đề sức khỏe tâm thần. Đó là những người tiền sử hoặc hiện tại mắc rối loạn tâm thần, hoặc những người đến vì các triệu chứng cơ thể của rối loạn tâm thần như đau, mệt mỏi, ăn ngủ kém, rối loạn kinh nguyệt, di tinh, mộng tinh, khó khăn trong quan hệ vợ chồng, họ có thể cho rằng họ mắc các bệnh liên quan tình dục, sinh sản, giới tính… Vì vậy vấn đề sức khỏe tâm thần trong bảo vệ, chăm sóc sức khỏe vị thành niên và thanh niên rất đáng quan tâm.
-
Một số rối loạn tâm thần trong chăm sóc sinh sản vị thành niên và thanh niên
2.1. Các rối loạn tâm thần thời kỳ mang thai và sau sinh
Rối loạn tâm thần thời kỳ mang thai và sau sinh là một quá trình biến đổi sinh lý, sinh hóa phức tạp diễn ra với các mức độ khác nhau làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người mẹ và ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất cũng như tâm thần của đứa trẻ khi sinh.
Các dấu hiệu rối loạn tâm thần khi mang thai
– Rối loạn stress cấp và trường diễn: Rối loạn này xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào trong thời gian mang thai và dễ làm tăng nguy cơ tử vong sơ sinh, trong thực tế thì ít được mọi người chú ý đến. Nguy cơ bị stress có thể gây tác hại lập tức và dài hạn cho thai, tác hại ở chỗ làm thời gian thai kỳ ngắn hơn, dễ sinh non, thai chết lưu, hay gặp ở 3 tháng đầu thai kỳ. Nếu stress xảy ra ở 3 tháng cuối thì nguy cơ cao nhất là thai sinh nhẹ ký.
– Rối loạn stress sau sang chấn: Chiếm khoảng 3,5% ở những phụ nữ mang thai, dễ có nguy cơ cao thai bị lạc chỗ, sảy thai, nôn nhiều và chuyển dạ sớm.
– Rối loạn trầm cảm: Chiếm khoảng 13 – 20% số phụ nữ mang thai. Trầm cảm liên quan đến các tai biến như sảy thai, chảy máu trong thời gian thai kỳ, sức đề kháng động mạch tử cung cao và gia tăng nguy cơ sinh mổ. Trầm cảm dễ dẫn đến những hành vi có hại cho sức khỏe thai nhi ở bà mẹ hút thuốc lá, uống rượu, sử dụng ma túy và tăng cân.
Rối loạn stress ở phụ nữ mang thai dễ gây nguy cơ cao thai bị lạc chỗ, sảy thai, nôn nhiều và chuyển dạ sớm.
– Rối loạn ăn uống: Chiếm 1,4% đối với chứng chán ăn tâm thần, 1,6% đối với chứng ăn vô độ. 3,7% đối với dạng hỗn hợp của 2 rối loạn trên. Bệnh nhân mắc chứng ăn vô độ dễ có nguy cơ sảy thai cao gấp 2 lần, nguy cơ cao về đái tháo đường, thai nhẹ ký.
– Rối loạn lưỡng cực giai đoạn hưng cảm: Tuy hiếm gặp nhưng nguy cơ cao chẳng hạn như: gia tăng hoạt động tình dục, hoạt động thể lực quá mức, lạm dụng ma túy.
– Ngoài ra có thể gặp các rối loạn mang tính chất tâm căn như nôn, buồn nôn. Nhất là mẹ mang thai trong 3 tháng đầu, một số khác thì tăng tiết nước bọt. Thường gặp là lo âu nhẹ, chóng mặt, tức ngực, sợ chết khi đẻ, sợ sinh con bệnh tật… có thể giảm triệu chứng này ở tháng thứ 4 và tái xuất hiện trạng thái lo âu trước khi sinh.
Chóng mặt, tức ngực có thể là dấu hiệu rối loạn tâm thần khi mang thai
Những rối loạn tâm thần sau khi sinh:
– Lú lẫn, hoang tưởng cấp: thường xảy ra trong khoảng 20 ngày đầu. Tiến triển nhanh từ ngày thứ 3, đột ngột xuất hiện tình trạng lú lẫn, hoang tưởng (có thể cả mê mộng) tăng về chiều tối. Hoang tưởng bị hại tập trung vào đứa con (cho là đứa con sinh ra không phải của mình) đôi khi kèm theo trầm cảm – lo âu.
– Trầm cảm sau sinh:
+ Trầm cảm nặng gặp ở 10% các bà mẹ sau sinh.
+ Tâm thần phân liệt có thể khởi phát sau sinh.
– Các biện pháp cần thiết: Nhập viện, tách mẹ và con (để đảm bảo an toàn cho con). Loại trừ các nguyên nhân phụ khoa (sót rau, nhiễm trùng…). Khi trạng thái của mẹ đã thuyên giảm cần cho gặp con trước sự giám sát y tế để tái lập mối quan hệ mẹ – con. Nếu điều kiện cơ sở cho phép, nên cho cả mẹ lẫn con cùng nằm viện.
– Vấn đề phòng ngừa: Trong thời kỳ thai nghén, nếu có rối loạn nhẹ, người mẹ cần được động viên, nâng đỡ của chồng và gia đình, cần được nghỉ ngơi, làm việc nhẹ nhàng; nếu có các rối loạn tâm thần nặng cần đưa đến khám tại cơ sở chuyên khoa tâm thần.
– Ở thời kỳ sau sinh, nếu bị trầm cảm nhẹ khi được động viên, nâng đỡ thì phần lớn sẽ trở lại bình thường, nếu bị trầm cảm nặng cần có chỉ định dùng thuốc chống trầm cảm. Khi có rối loạn hành vi kích động dữ dội hoặc trầm cảm nặng cần nhập viện để được điều trị, cách ly đảm bảo an toàn cho con.
2.2. Ảnh hưởng tinh thần sau sảy thai
Sảy thai kéo theo một loạt các ảnh hưởng nặng nề về tinh thần. Cảm giác tội lỗi và tức giận, có thể đổ lỗi cho bản thân vì sự bất cẩn của mình. Có thể sẽ đổ lỗi cho người khác mặc dù điều đó có vẻ vô lý. Cảm thấy ghen tị và cáu kỉnh với những phụ nữ mang thai khác và có thể nuôi dưỡng lòng căm thù đối với họ.
Trầm cảm và đau khổ, khó chịu hoặc thất vọng, tuyệt vọng, trống rỗng, buồn bã. Lờ đờ, kiệt sức, buồn ngủ hoặc mất ngủ, rất đói hoặc không đói. Đau khổ, lo lắng, vô thức, thiếu tập trung vào việc đưa ra quyết định, ghi nhớ mọi thứ. Xu hướng tự sát và những cơn đau ngẫu nhiên xuất hiện. Sảy thai không chỉ tàn phá cơ thể bạn mà còn khiến bạn tổn thương về tinh thần.
Cách giải tỏa: Đừng tự trách mình, vì đó không phải lỗi của bạn. Bác sĩ sẽ giúp bạn hiểu được nguyên nhân của vấn đề. Tránh căng thẳng, nói chuyện với người khác, tập thể dục. Liệu pháp tâm lý giúp đối phó với đau buồn. Thuốc chống trầm cảm nếu bị trầm cảm.
2.3. Các rối loạn tâm thần ở phụ nữ phá thai
Có một mối liên hệ giữa phá thai và tỉ lệ trầm cảm, lo âu, rối loạn giấc ngủ và các tình trạng sức khỏe tâm thần khác nặng nề hơn. Thêm vào đó, những trường hợp có tiền sử về tâm thần có thể có nguy cơ cao bị tái phát hoặc nặng lên.
Phá thai cũng là nguyên nhân khiến chứng trầm cảm, lo âu, rối loạn giấc ngủ trở nên nặng nề hơn
Trầm cảm sau khi phá thai: có từ 5 đến 30% các trường hợp phụ nữ rơi vào tình trạng trầm cảm sau khi phá thai. Nếu các triệu chứng của bệnh không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời sẽ khiến cho người mẹ càng trở nên buồn chán, tuyệt vọng và làm gia tăng nguy cơ tự sát.
Nguyên nhân trầm cảm do phá thai được xem là không nhân đạo và gây ra rất nhiều nỗi ám ảnh đối với người mẹ, đặc biệt là những trường hợp phá thai ngoài mong muốn. Sau khi phá thai, phụ nữ gặp phải nhiều sự kỳ thị, chỉ trích, những người thân bên cạnh không quan tâm, chia sẻ khiến cho họ cảm thấy cô đơn và chán nản.
Cách phòng tránh trầm cảm sau khi phá thai: Dành thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn. Chú ý nhiều hơn về chế độ dinh dưỡng. Đảm bảo chất lượng giấc ngủ. Cân bằng cảm xúc. Học cách suy nghĩ tích cực và lạc quan. Cần sự quan tâm từ người thân.
Điều trị bằng liệu tâm lý. Đi chùa, đi picnic, làm từ thiện. Thay đổi cuộc sống tích cực hơn. Làm bản thân trở nên bận rộn bằng việc học tập hay công việc. Duy trì thói quen luyện tập thể dục thể thao, ngủ 7- 8 tiếng hằng ngày. Bổ sung đầy đủ dinh dưỡng, tìm kiếm những lời khuyên hữu ích thay vì chỉ giữ trong lòng. Nhiều trường hợp cần dùng thuốc chống trầm cảm, giải lo âu.
2.4. Sang chấn tâm lý sau ly hôn
Là tình trạng khó có thể tránh khỏi nhưng điều quan trọng nhất là cả hai phải học cách vượt qua và làm quen với cuộc sống mới. Trong đó, một số người không thể vượt qua nỗi đau hậu ly hôn và phải đối mặt với các vấn đề tâm lý, tâm thần. Không ít người cảm thấy được giải thoát khỏi cuộc sống bức bối và không hạnh phúc sau khi ly hôn. Có thể nói, ly hôn gây ra những thay đổi đáng kể trong cuộc sống và điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý. Sau sự kiện này, cả hai người đều phải mất một thời gian dài để có thể ổn định lại cảm xúc, tinh thần và sức khỏe thể chất. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp sang chấn tâm lý sau ly hôn dẫn đến các rối loạn tâm thần.
Nếu cả hai cùng đồng tình với quyết định ly hôn, mức độ sang chấn sẽ nhẹ hơn so với trường hợp chỉ có 1 trong 2 người đơn phương đệ đơn ly hôn lên tòa. Sang chấn tâm lý khởi phát khoảng 6 – 12 tháng sau ly hôn. Đó là do tổn thương ẩn sâu bên trong sẽ lớn dần và gây ra các triệu chứng bất thường sau một khoảng thời gian. Có những trường hợp kích động và bất ổn ngay sau khi ly hôn. Điều này xuất phát từ nguyên nhân cụ thể dẫn đến ly hôn và đặc điểm tính cách của từng người.
Sang chấn tâm lý sau ly hôn có thể dẫn đến trầm cảm, rối loạn lo âu và rối loạn stress.
Cảm xúc tê liệt và trống rỗng, một số người sẽ không tránh khỏi cảm giác đau khổ và tuyệt vọng. Có người phải đối mặt với sự đau khổ, buồn bã kéo dài và đôi khi phát triển thành các chứng rối loạn tâm thần.
Trí nhớ kém và khó tập trung, mệt mỏi, suy nhược, rối loạn giấc ngủ. Có cảm giác tội lỗi. Né tránh nhắc về sự kiện ly hôn, bi quan về mọi thứ. Sang chấn tâm lý sau ly hôn có thể dẫn đến trầm cảm, rối loạn lo âu và rối loạn stress.
Các biện pháp để vượt qua: Cần tin rằng mọi chuyện rồi sẽ qua, tập trung vào công việc và con cái. Gặp gỡ người thân và bạn bè, nâng cấp bản thân mỗi ngày, kết hợp với trị liệu tâm lý. Nếu nặng cần tư vấn tâm lý và thăm khám bởi bác sĩ chuyên khoa tâm thần.
2.5. Vấn đề bạo hành gia đình và hiếp dâm
Đặc điểm chung
Bạo hành gia đình là một loại bạo lực về thể chất, tình cảm, tình dục diễn ra giữa những người có quan hệ (như các thành viên trong gia đình), những người liên quan tình cảm (sống cùng nhau), hoặc người có những mối quan hệ khác (như người chăm sóc của một người cao tuổi). Bạo hành gia đình không kể giới hạn về tuổi tác, chủng tộc, tầng lớp xã hội, trình độ học vấn, kinh tế là một khía cạnh quan trọng của sức khỏe và an toàn cộng đồng. Hàng năm Việt Nam có hơn 1.000 trẻ em bị xâm hại tình dục. Trung bình, 8 giờ có thêm một trẻ bị xâm hại khoảng 60% nạn nhân có độ tuổi từ 12 – 15. 29% nữ và 22% nam từng trải qua bạo hành về thể chất, tình dục, hoặc tâm thần. Có 3 loại bạo hành trẻ em: bỏ rơi, bạo hành thể chất và lạm dụng tình dục.
Trẻ bị bạo hành có thể có chấn thương kín đáo ở đầu, ngực, bụng và các bộ phận khác.
Sốc do mất máu kín đáo nhưng có thể do mất điện giải, nhiễm độc, rối loạn chức năng thần kinh trung ương, thêm nữa là do các vết rách hoặc bỏng, nhiễm trùng (như vỡ ruột non gây viêm phúc mạc…).
Vấn đề tâm thần
Kém nhận thức bản thân, không tin hoặc không yêu người khác, hung hăng, gây rối, hành vi trái pháp luật; cơn thịnh nộ, hành vi tự hủy hoại hoặc tự bạo hành, ý tưởng tự sát; hành vi thụ động, thiếu tự tin, sợ hãi gia nhập một mối quan hệ mới, lo lắng, học tập sút kém; buồn rầu hoặc triệu chứng trầm cảm; lạm dụng thuốc ngủ và rượu; mất ngủ hoặc ác mộng, mảng hồi tưởng.
Việc điều trị trẻ bị bạo hành thể chất nên tương tự như điều trị trẻ bị chấn thương do tai nạn, chấn thương tâm lý. Cách ly nhanh chóng với người chăm sóc; việc phỏng vấn của cảnh sát, luật sư và dịch vụ bảo trợ xã hội, có thể là cần thiết.
2.6. Ấu dâm
Ấu dâm là một chứng rối loạn tình dục bao gồm những ham muốn tình dục đối với trẻ em dưới tuổi vị thành niên (khoảng dưới 14 tuổi). Người mắc bệnh (có người có hành vi ấu dâm nhưng không mắc bệnh) được xác định là người ít nhất 16 tuổi và lớn hơn trẻ bị hại ít nhất 5 tuổi.
Phương pháp điều trị ấu dâm: ấu dâm là một bệnh mãn tính, việc điều trị nên tập trung vào thay đổi hành vi trong thời gian dài. Liệu pháp điều trị là theo dõi và đoán trước các trường hợp có thể xảy ra hành động sai lầm để phòng tránh. Ngoài ra, các nhóm điều trị và bác sĩ tâm lý luôn được chỉ định để giúp người bệnh. Đôi khi bác sĩ có thể chỉ định dùng thuốc để làm giảm ham muốn tình dục. Các thuốc này bao gồm medroxyprogesterone acetate, thuốc làm giảm testosterone và các chất ức chế tái hấp thu serotonin cũng có thể được sử dụng; đồng thời bệnh nhân cần điều trị các bệnh như nghiện rượu hoặc nghiện chất kích thích nếu có.
Nhiều nước đã đưa ra những hình phạt rất nặng với hành vi “ấu dâm”: những kẻ ấu dâm sẽ bị “thiến” trước khi tống vào trại giam. Biện pháp trừng phạt này dành cho cả đàn ông và phụ nữ trên độ tuổi 21, áp dụng với các nạn nhân từ 12 tuổi trở xuống. “Thiến hóa học” là hình phạt buộc tội phạm lạm dụng tình dục phải dùng thuốc làm mất hết cảm giác ham muốn tình dục. Có ý kiến cho rằng, “thiến” chỉ có thể làm giảm ham muốn tình dục chứ không thể giúp ổn định tâm lý của những tên tội phạm.
Cha mẹ cần dạy trẻ cách tự bảo vệ bản thân từ sớm
Nạn nhân của ấu dâm sẽ bị tổn thương tâm lý và để lại hậu quả tinh thần rất nặng nề trong suốt cuộc đời bé gái. Tình trạng thường thấy của nạn nhân tội ấu dâm là hoảng loạn, hay gặp ác mộng, sợ người khác giới, luôn bị ám ảnh bị người đàn ông nào đó tấn công, luôn mặc cảm bản thân không còn trong sáng và hồn nhiên như các bạn cùng trang lứa. Khi đến tuổi trưởng thành, nếu không được cha mẹ, người thân và bạn bè cảm thông và chia sẻ, có 2 nguy cơ dễ xảy ra với bé: một là rối loạn chức năng tình dục, thích quan hệ với đàn ông đủ các lứa tuổi và trở thành một người buông thả; hai là không bao giờ giao cấu với người khác giới, sống mặc cảm và độc thân suốt đời.
Cha mẹ, người thân và toàn xã hội nên nêu cao tinh thần bảo vệ trẻ em trước các đối tượng mắc bệnh lý (hoặc có hành vi) ấu dâm. Đối với trẻ em bị lạm dụng, mục đích quan trọng nhất là bảo vệ trẻ khỏi việc bị lạm dụng lần nữa; đôi khi nhiều trẻ bị lạm dụng cần phải nhập viện để điều trị tâm lý nếu trẻ bị hoảng loạn.
Những hành động cơ bạn giúp bé tự bảo vệ bản thân trước vấn nạn xâm hại tình dục
-
Các triệu chứng và dấu hiệu về các rối loạn tâm thần ở vị thành niên và thanh niên
Người bệnh không đến với chúng ta để khám về sức khỏe tâm thần mà vì các triệu chứng cơ thể của bệnh lý tâm thần mà họ đến với chúng ta. Hoặc họ đi khám, điều trị các vấn đề của bà mẹ và trẻ em nhưng kèm theo đó họ có cả vấn đề sức khỏe tâm thần. Trước hết cần tìm hiểu thêm thông tin từ người nhà hoặc những người gần gũi với người bệnh để có thêm thông tin. Tìm hiểu những biểu hiện bất thường trong sinh hoạt hàng ngày, học tập, công việc, các mối quan hệ…
Các rối loạn tâm thần nội sinh do cơ thể tự sinh ra (có thể liên quan gen), có thể do bệnh cơ thể (rất nhiều bệnh cơ thể là nguyên nhân của một số rối loạn tâm thần, do chất tác động tâm thần hay do yếu tố môi trường (bị stress như thi trượt, bị phản bội, bị tra tấn, hiếp dâm, mất tiền, người thân chết đột ngột, chứng kiến tai nạn thảm khốc, động đất, núi lửa, chiến tranh, dịch bệnh…). Khi gặp một người nghi ngờ có vấn đề sức khỏe tâm thần chúng ta cần chú ý:
Những thay đổi bất thường về hành vi, lời nói, thói quen có thể là dấu hiệu giúp ba mẹ nhận ra chứng rối loạn tâm thần ở trẻ
– Quan sát bên ngoài: Vóc dáng, thể trạng, ăn mặc bình thường hay chải chuốt, vệ sinh sạch hay bẩn, tác phong nhanh nhẹn hay chậm chạp.
– Ý thức: Bệnh nhân có thể tỉnh hoặc rối loạn ý thức, rối loạn định hướng không gian, thời gian và bản thân.
– Lời nói và ngôn ngữ: Nhịp điệu nhanh hoặc chậm, lưu loát hay không, có diễn đạt được điều muốn nói, nhại lời, cú pháp bất thường.
– Khí sắc: Buồn, ít cười, rớm nước mắt, dễ khóc hoặc hay khóc lóc. Có thể lo âu, khoái cảm hay giận dữ. Có thể có biểu hiện vui vẻ quá mức, cười đùa, hát hò. Cảm xúc có thể phù hợp hay không với nội dung tư duy, có khi trái ngược với hoàn cảnh. Sợ chết hoặc muốn chết, có ý tưởng tự sát. Có khi mất phản ứng cảm xúc, vô cảm.
– Tri giác: có các ảo tưởng, ảo giác như nghe những âm thanh không có thực, có thể là tiếng nói khen chê, xúi dục người bệnh làm một việc gì đó, thường là gây hại. hoặc nhìn thấy, ngửi thấy những hình ảnh, mùi vị không có thực tại thời điểm đó.
– Tư duy: Có thể mở rộng sự liên tưởng, suy nghĩ huyền bí, quá mức, lai nhai, nhại lời, kết cấu và khả năng tư duy hợp lý, trẻ có thể có định kiến, ám ảnh với rất nhiều loại tư duy hay hành vi ám ảnh. Có thể có hoang tưởng với nhiều loại: bị truy hại, tự buộc tội, bị theo dõi, bị kiểm tra, bị chi phối…
– Hành vi: Sự phối hợp vận động, các hành vi bất thường như tăng hoặc giảm hoạt động, hành vi dị kỳ khó hiểu, căng trương lực, kích động, bất động, thích ở một mình, không tiếp xúc với xung quanh, đi lang thang, lạm dụng hoặc nghiện chất. nghiện game, cờ bạc, sex.…có hành vi tự hủy hoại thân thể hoặc tự sát.
– Trí nhớ: tăng hoặc giảm nhớ, hay quên, nhớ bịa…
– Chú ý: Tăng hoặc giảm, di chuyển chú ý nhanh hoặc chậm. Mất tập trung chú ý.
– Trí tuệ: chậm phát triển tâm thần hoặc sa sút trí tuệ.
– Rối loạn ăn uống: ăn ít, không ăn hoặc ăn nhiều, ăn vô độ, ăn bậy.
– Rối loạn giấc ngủ: khó vào giấc ngủ, ngủ ít, hay thức giấc, hay dậy sớm, mộng du, ác mộng, ngủ nhiều.
– Rối loạn bản năng tình dục với rất nhiều biểu hiện khác nhau.
– Tự hủy hoại bản thân ở thanh thiếu niên bao gồm cào xước mặt, cắt hoặc đốt da, cũng như đâm, đánh và lặp đi lặp lại chà xát da bằng thuốc tẩy hoặc muối trong trường hợp không có ý định chết.
– Khả năng học tập, lao động, chăm sóc bản thân, gia đình và con cái giảm. Có mối bất hòa trong gia đình và xã hội hay không.
– Có rất nhiều triệu chứng cơ thể của các rối loạn tâm thần có thể gặp như các triệu chứng đau: đau đầu, bụng, ngực, cơ, xương, khớp…Khó thở, chướng bụng đầy hơi, nôn, buồn nôn, nuốt nghẹn, nóng lạnh bất thường, vã mồ hôi, rối loạn nhịp tim và các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật khác. Có những ám ảnh nghi bệnh, các bệnh hiểm nghèo hay các bệnh thông thường. các triệu chứng này không phù hợp với tổn thương cơ thể.
– Ngược lại có rất nhiều các rối loạn tâm thần do bệnh cơ thể sinh ra, có rất nhiều bệnh cơ thể hoặc một số trạng thái sinh lý có thể có rối loạn tâm thần: các bệnh thần kinh, tim, phổi, tiêu hóa, tiết niệu, sinh dục, da liễu, truyền nhiễm cơ xương khớp, các trạng thái mang thai, sinh đẻ, tiền kinh nguyệt…
– Ngoài ra những người có vấn đề về cơ thể, có thể có các rối loạn tâm thần kèm theo.
-
Cách xử trí và dự phòng các rối loạn tâm thần
Đối với mỗi rối loạn tâm thần có cách xử trí khác nhau. Trước hết cần phối hợp với gia đình người bệnh quan tâm chăm sóc, nâng đỡ tinh thần và vật chất cho người bệnh. Cần chuyển người bệnh đi khám, tư vấn điều trị hoặc cấp cứu (tự sát, kích động, từ chối ăn) ở các cơ sở tâm thần. Các bệnh cơ thể cần điều trị chuyên khoa, nếu có rối loạn tâm thần cần mời các bác sĩ chuyên ngành tâm thần phối hợp điều trị. Tránh việc che dấu hoặc làm những việc không phù hợp như đi chùa chiền, đi cúng, dâng sao, giải hạn…
Để dự phòng các rối loạn tâm thần:
– Nuôi dưỡng, rèn luyện để trẻ có một thể chất khỏe mạnh.
– Giáo dục trẻ tự lập, trung thực, dám chịu trách nhiệm, biết nhận lỗi. Có ý chí, có nghị lực sẵn sàng vượt qua khó khăn, không ỷ lại, không lười biếng. Sống tử tế, bao dung, độ lượng, ứng xử văn minh. Có khả năng chống đỡ mọi sự cám dỗ, luôn cảnh giác và biết cách từ chối. Có chế độ sinh hoạt, ăn , ngủ, học tập và làm việc hợp lý.
Ba mẹ cần quan tâm đến cảm xúc và đồng hành cùng con trên chặng đường khôn lớn
– Gia đình luôn thể hiện sự quan tâm gần gũi con, luôn muốn lắng nghe cảm xúc và suy nghĩ của con. Một vài lời động viên đơn giản có thể giúp con cảm thấy thoải mái khi giãi bày cảm xúc với bố mẹ. Dành lời khen cho con về những việc mà con làm tốt cho dù là việc đơn giản. Khi con có vấn đề cần tìm giải pháp cho con. Lắng nghe ý kiến của con và cố gắng giải quyết vấn đề một cách bình tĩnh.
– Khi bản thân trẻ có vấn đề cần chia sẻ với gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột hiện đã kết hợp với GS.TS.BS Cao Tiến Đức – Phó chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam; Phó chủ tịch Hội chống động kinh Việt Nam; Uỷ viên Hội đồng chuyên môn Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương.
Sự kết hợp này sẽ tạo ra một nền tảng mới trong điều trị các bệnh lý lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học tại khu vực Tây Nguyên, giúp khách hàng gặp các vấn đề về tâm lý sớm được điều trị lấy lại cân bằng trong cuộc sống.
Để đăng ký khám chữa bệnh với các chuyên gia tại BUH, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900 1147