BỆNH NHÂN NGHIỆN RƯỢU VÀ CÁC CẤP CỨU LIÊN QUAN

Bài viết được biên soạn bởi GS.TS.BS Cao cấp Cao Tiến Đức

MỞ ĐẦU

Ngày trước, các bệnh nhân phải nhập viện vì các bệnh nội, ngoại khoa, chúng ta phải cảnh giác với hội chứng cai rượu. Với các bệnh cơ thể không rõ về tình trạng nghiện rượu có thể khiến họ tăng nguy cơ sảng rượu.

Nguyên nhân đột quỵ não do sử dụng cocaine

Say cocain và chất kích thích có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng đối với bệnh nhân nghiện rượu.

Tỷ lệ mắc do lạm dụng rượu và các chất ở Việt Nam khá cao, theo Hội Tâm thần học Việt Nam, tỷ lệ lạm dụng rượu là 5,3% dân số. Lạm dụng rượu và các chất có thể gây ra bệnh lý tâm thần chủ yếu, thường thuyên giảm khi bệnh nhân lạm dụng và nghiện vượt qua được nhờ điều trị.

Việc xét nghiệm nước tiểu giúp phát hiện nghiện chất gây nghiện được khuyến cáo nên là xét nghiệm thường quy cho những bệnh nhân có những hành vi bất thường. Hầu như nó làm tăng gấp đôi tỷ lệ phát hiện lạm dụng chất so với độ tin cậy khi chỉ dựa vào hỏi bệnh sử.

Rượu là thứ nguy hiểm nhất của lạm dụng chất. Những nghiên cứu quốc gia chỉ ra rằng lạm dụng và nghiện rượu chiếm số lượng lớn trong các trường hợp phải vào khoa hồi sức. Những vụ nổ súng, đâm chém, xâm hại tình dục và những sang chấn khác nữa thường là do trước đó có sử dụng rượu (và/hoặc bia).

Rượu còn độc cho cơ thể là gây tổn thương nhiều cơ quan và gây ra nhiều bệnh tật, gồm có viêm dạ dày, thiếu máu, mất trí, các hội chứng quên, hội chứng Wernick, viêm tụy, ung thư đường tiêu hóa, viêm gan, xơ gan và bệnh cơ tim… Một nhà lâm sàng nhậy bén sẽ nhận ra những hậu quả cơ bản liên quan tới rượu và có thể tham khảo bác sĩ tâm thần để nhận được sự hỗ trợ trong việc can thiệp điều trị. Sự đánh giá của khoa cấp cứu cung cấp một cơ hội lớn để cấp cứu và điều trị kịp thời ở những trường hợp này.

CÁC CẤP CỨU LIÊN QUAN ĐẾN RƯỢU

Ở Việt Nam có khoảng 4% dân số nghiện rượu. Ở Mỹ, 30% – 45% người trưởng thành có ít nhất một lần gặp rắc rối do sử dụng rượu. Khoảng 10% nữ giới và 20% nam giới trong dân số nước này lạm dụng rượu trong suốt cuộc đời họ và 3% – 5% nữ giới và 10% nam giới nghiện rượu.

4% dân số Việt Nam nghiện rượu

1.  Đánh giá lâm sàng

Điều quan trọng là phải tập hợp nhiều nguồn thông tin có sẵn về mức độ sử dụng rượu của bệnh nhân và hoàn cảnh phải vào khoa cấp cứu. Chú ý thêm những biểu hiện gần đây về việc tự sát, tỷ lệ tự sát cao ở những bệnh nhân có dấu hiệu của trầm cảm và sự tuyệt vọng.

Bệnh nhân nghiện rượu thường có cảm giác tội lỗi sâu sắc về vấn đề của họ và có thể tự nhiên lo lắng. Tiếp cận những bệnh nhân này với sự tôn trọng và cố gắng làm cho họ dễ chịu, biểu lộ một thái độ không phán xét bằng cả lời nói và các cử chỉ phi ngôn ngữ.

Hỏi bệnh nhân nếu họ có những đau đớn cơ thể và nếu họ có bất kỳ nỗi lo lắng đặc biệt nào mà họ muốn giải tỏa (như là sự an toàn của những hành khách khác trên chiếc xe có thể bị đổ, những hành vi phạm luật và/hoặc bạo lực họ đã phạm phải trong suốt thời kỳ dài mà họ không thể hồi tưởng).

Bạn đang phân vân khi tìm chuyên gia tư vấn tâm lý?

Khi khám bệnh nhân là để họ tự kể về bệnh sử mà không bị ngắt quãng nếu có thể. Cách tiếp cận mở này ta có thể thu nhiều dữ liệu.

Nếu bệnh nhân thờ ơ hoặc có vẻ trong tình trạng mê sảng, vấn đề sống còn là lập tức xác định nồng độ cồn và định lượng nồng độ đường máu ở ngón tay. Để tránh tiến triển của hội chứng Wernick (như mất điều hòa, liệt vận nhãn, mất định hướng, liệt nhẹ cơ thẳng bụng), nên chỉ định tiêm bắp hoặc đường tĩnh mạch vitamin B1 100mg trước khi truyền dịch hoặc cho ăn thức ăn giàu năng lượng.

Trong suốt vài phút đầu hỏi bệnh, chú ý sự có mặt của các dấu hiệu gợi ý ở vòng cổ tay, mắt cá, hoặc cổ. Nếu bệnh nhân thức tỉnh và định hướng được nhưng biểu lộ rõ các dấu hiệu của hội chứng cai như run và tăng nhịp tim, tiêm bắp, tĩnh mạch, hoặc uống benzodiazepin trước khi tiến hành hỏi bệnh thêm, điều này có thể tốn thêm chút ít thời gian.

Xác định xem lần uống rượu gần đây nhất là khi nào và kiểm tra xem các xét nghiệm gần đây đã được làm hay chưa. Nếu cần, chỉ định định lượng mức độ cồn trong máu, xét nghiệm ma túy trong nước tiểu, xét nghiệm sinh hóa, tổng phân tích máu, xét nghiệm chức năng gan, thời gian PT và PTT. 

Đây cũng là thời điểm tốt để xem xét lại tiền sử và xác định xem liệu bệnh nhân có dùng ma túy đường phố và/hoặc các thuốc được kê đơn mà chúng có thể có một ảnh hưởng trên tình trạng sức khỏe của họ. Ví dụ tăng huyết áp và tăng nhịp tim có thể do hội chứng cai nhưng nó cũng có thể là do sự trở lại của việc quên liều clonidin hoặc chẹn beta đang dùng. Tiền sử sảng rượu là một yếu tố nguy cơ trong sự tái diễn tình trạng nguy hiểm này.

Khi tiến hành kiểm tra trạng thái tâm thần, tìm biểu hiện của trầm cảm, ảo giác, hoang tưởng, vấn đề về trí nhớ, vấn đề về nhận thức cụ thể. Tuy nhiên, các test về nhận thức, trí nhớ có thể bị ảnh hưởng bởi lo lắng liên quan đến hội chứng cai và hoàn cảnh bắt buộc phải đến khoa cấp cứu.

Nếu bệnh nhân trầm cảm, hãy hỏi về ý tưởng tự sát hoặc ý định giết người và bất kỳ kế hoạch đặc biệt nào cho những hành động này.

2. Khám cơ thể

Có thực tế rằng các biến chứng như sảng run hầu hết phát triển ở những người nghiện rượu mà bị thiểu dưỡng, bị các bệnh nhiễm trùng (như viêm phổi, nhiễm khuẩn tiết niệu), mất nước, hoặc các triệu chứng cơ thể không kiểm soát được bởi các rối loạn chức năng do nghiện rượu gây ra.

Bệnh do nghiện rượu

Tiến hành khám toàn diện như các mô tả trên. Kiểm tra các vết bầm, chấn thương sọ não kín (sưng, bầm trong các giai đoạn khác nhau trên cẳng tay, đầu gối, cẳng chân, đầu thường gặp trong bệnh nhân nghiện rượu), gãy xương sườn, tìm kiếm các bằng chứng của thiểu dưỡng, xuất huyết dưới da và ngoài màng cứng, HIV, bệnh lây truyền qua đường tình dục. Các rối loạn điện giải như giảm kali, natri, magiê, tăng nồng độ enzym gan, xơ gan, tràn dịch ổ bụng có thể được chú ý. Bệnh cơ tim, yếu sinh lý, phì đại tuyến vú có thể được ghi nhận ở những giai đoạn sau của nghiện rượu.

Sao mạch (giãn các mao mạch và các tĩnh mạch ngoại biên) có thể ở mũi, má và bụng. Bàn tay son, đôi khi gàu dai dẳng có thể được thấy ở da đầu, cũng như vùng lông mày và râu.

3. Các thông số xét nghiệm

Các thông số xét nghiệm có thể đưa ra các manh mối của lạm dụng rượu, tăng thể tích trung bình hồng cầu (MCV), thiếu máu, giảm B12, acid folic, tăng enzym gan GGT, AST, ALT, kéo dài PT, PTT, giảm albumin máu và K+, Na+, Mg++

Các dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng cai:

– Run xuất hiện trong 6 đến 8 giờ sau khi giảm đáng kể lượng rượu uống vào, có thể có ảo thị, cơn co giật sau 12 đến 24 giờ tiếp theo hội chứng cai.

– Các triệu chứng khác bao gồm buồn nôn, nôn, tăng kích thích, mất ngủ, dễ hốt hoảng và nhậy cảm với ánh sáng và tiếng ồn,  kích thích thần kinh tự chủ như tăng nhịp tim, tăng huyết áp, vã mồ hôi.

3.1 Điều trị nghiện rượu

Giai đoạn cai

Thực hiện khám toàn diện (như đã mô tả trên), xác định và điều trị bất kỳ vấn đề sức khoẻ bất thường nào.

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn mỗi 4 giờ trong 48 giờ đầu trong khi bệnh nhân còn tỉnh táo, nếu tình trạng bệnh nhân ổn định thì tần số theo dõi giảm xuống 3 lần/ngày trong 2 – 3 ngày tiếp theo.

Hội chứng cai rượu là gì? Dấu hiệu nhận biết và điều trị - Tạp chí Tâm lý học Việt Nam

Các benzodiazepin được ưu tiên để xử trí hội chứng cai. Bất kỳ chế phẩm nào đều có thể được sử dụng nhưng sinh khả dụng của chúng khác nhau. Một sự lựa chọn tin cậy là temazepam (restoril), uống 30mg mỗi 6 giờ trong 24 giờ, sau đó uống 30mg mỗi 8 giờ trong 24 giờ, những ngày tiếp theo giảm dần 30mg, sau đó 30mg uống/ngày trong những ngày cuối. Lợi ích của các chế phẩm như lorazepam, temazepam và oxazepam là chúng làm giảm gánh nặng chuyển hóa của gan hơn so với các các benzodiazepin khác bởi chúng chỉ kết hợp trước khi đào thải khỏi cơ thể. Do đó chúng cũng thường được ưu tiên hơn ở những trường hợp có dấu hiệu bệnh lý gan. Ở khoa chăm sóc đặc biệt, nơi uống thuốc là không thể, tiêm tĩnh mạch diazepam và lorazepam thuận lợi hơn. Mất nước có thể được điều trị bằng cho uống hoặc truyền dịch. Chỉ định vitamin B1 ngoài đường ruột, nếu có thể. Nếu nồng độ magiê thấp, khuyến cáo bổ sung magiê.

Giai đoạn phục hồi lâu dài và kiêng rượu

Thành công phụ thuộc vào động cơ thúc đẩy của cá nhân để ngừng uống rượu. Đó là một điểm của nhận thức bản năng, khi mà họ nhận ra rằng rượu nguy hại đối với họ và họ cần tránh xa nó và giữ khoảng cách với những người mời hay thuyết phục họ uống rượu.

Thuốc chống tái nghiện

Thuốc dự phòng disulfiram (antabuse) có thể có hiệu quả thúc đẩy bệnh nhân và sử dụng sáng tạo trong những tình huống có nguy cơ cao để chống tái nghiện. Liều thường dùng là 250mg/ngày. Bệnh nhân phải được cảnh báo về các tương tác của nó với rượu và chức năng gan phải được theo dõi. Acamprosat (campral) và naltrexon có thành công vừa phải trong chống tái nghiện ở những bệnh nhân nghiện rượu.

SAY RƯỢU

1. Khái niệm

Nồng độ rượu trong máu thông thường khi say là 0,08 – 0,1g/100ml. Khả năng phối hợp vận động và ra quyết định sẽ giảm dần tương ứng với tăng nồng độ cồn trong máu.

– Nồng độ 0,01 – 0,05g/100ml: hành vi bình thường, hưng phấn nhẹ.

– Nồng độ 0,08 – 0,10g/100ml: chính thức say, nói quá nhiều, kéo dài thời gian phản ứng, mất phối hợp

– Nồng độ 0,18 – 0,30g/100ml: giảm thị trường, mất điều hòa, nói lè nhè, mất định hướng, chóng mặt, mất phối hợp nặng.

– Nồng độ 0,35 – 0,50g/100ml: tăng an dịu và thờ ơ, giảm phản xạ, mất kiểm soát, nguy cơ đáng kể của tử vong ở những người mới biết uống rượu với nồng độ lớn hơn nhiều 0,40g/100ml.Sảng rượu: Căn bệnh nguy hiểm | Vinmec

Người say rượu có thể nói quá nhiều, hung hãn, thù địch, hoặc kích động.

Ở mức cao hơn, khi phối hợp vận động giảm và hiệu quả an dịu tăng lên, người đó có nguy cơ bị ngã. Ở liều chết 50% (LD50 – lethal dose) nồng độ rượu trong máu lên tới 0,40 sẽ là nguy cơ của hôn mê, ức chế hô hấp và tăng tử vong. Người nghiện rượu mãn tính có thể có mức chịu đựng cao hơn so với những trường hợp mới biết uống rượu. Điều này quan trọng, do đó, phải thu thập bệnh sử bổ sung nếu bệnh nhân không thể tự mình cung cấp.

2. Các xét nghiệm

Ngoài mức độ cồn cao, có thể một xét nghiệm khác của lạm dụng như là tăng enzym gan, thiếu máu và rối loạn điện giải: tăng enzym gan (ALT, AST, GGT), giảm số lượng tiểu cầu, tăng MCV, giảm vitamin B12, vitamin B1, acid folic và các vi chất khác, giảm nồng độ carbonhydrat và protein chứa sắt (transferrin).

Biến chứng

Biến chứng nghiêm trọng nhất của say rượu bao gồm: ngừng hô hấp và trụy tim mạch; viêm phổi hít, viêm dạ dày và tổn thương do ngã hoặc hành vi kích động cũng dẫn tới tổn thương cơ thể và bệnh tật.

Điều trị

Ngộ độc rượu cấp là một cấp cứu và đòi hỏi phải được điều trị trong khoa hồi sức cấp cứu nếu bệnh nhân có các dấu hiệu giảm thức tỉnh và ức chế hô hấp. Flumazenil không làm đảo ngược tình trạng ngộ độc nhưng có thể làm đảo ngược hiệu quả của bất kỳ benzodiazepin nào mà bệnh nhân đã uống.

Theo dõi sát và hỗ trợ hô hấp, bảo vệ đường thở khỏi các chất hít vào phải được đảm bảo. Để làm giảm mức độ trầm trọng của ngộ độc, bệnh nhân cần được đặt ở phòng yên tĩnh cho tỉnh rượu trong khi theo dõi sự xuất hiện của các triệu chứng cai

SẢNG RUN (SẢNG DO CAI RƯỢU)

– Đánh giá sớm tình trạng cai rượu và điều trị là con đường tốt nhất để phòng chống sảng run. Nếu bệnh nhân bắt đầu có ảo giác và mất định hướng, khởi phát của sảng run sắp xảy ra. Nó thường đánh dấu bằng cơn co giật toàn thể, tăng rung giật cơ. Tiêm bắp lorazepam hoặc diazepam có thể được chỉ định để kiểm soát co giật. Liều cao hơn nhiều của benzodiazepin có thể cần kéo dài trong 7 – 10 ngày trong một chế độ hộ lý sát sao, tránh các kích thích thính giác và thị giác quá mức cho bệnh nhân. Trong suốt thời gian này cần tăng tần suất theo dõi các dấu hiệu sinh tồn.

– Các nguyên nhân khác của co giật nên được loại trừ ngay cả khi co giật xảy ra trong bối cảnh hội chứng cai rượu.

– Sảng run không được điều trị sẽ dẫn đến tử vong; tỷ lệ tử vong khoảng 15% và là một tiến triển đáng ngại, do vậy, đòi hỏi phải đưa bệnh nhân đến khoa hồi sức cấp cứu để kiểm soát tối ưu. Nó là một cấp cứu nghiêm trọng nhất liên quan tới bệnh nhân nghiện rượu.

– Hội chứng cai rượu với mức độ nghiêm trọng, rối loạn ý thức nặng, mất ngủ hoàn toàn, hoang tưởng, ảo giác rầm rộ, co giật kiểu động kinh, rối loạn thần kinh thực vật nặng, các triệu chứng bệnh cơ thể kèm theo…  được gọi là mê sảng do cai rượu. Rối loạn này có thể gây tử vong nếu không được phát hiện và nhanh chóng xử lý.

Xu hướng của các bác sĩ tại khoa cấp cứu là đưa bệnh nhân vào khoa tâm thần trước khi xử trí tình trạng toàn thân của họ, đây là một sai lầm nghiêm trọng trong đánh giá lâm sàng. Ngay cả trong trường hợp độ cồn trong máu không đo lường được, tình trạng bệnh lý cơ thể không được điều trị có thể dẫn đến tử vong.

– Điều trị sảng rượu tại khoa cấp cứu:

– Liệu pháp hỗ trợ là một thành phần quan trọng trong việc điều trị mê sảng do nghiện rượu nặng. Liệu pháp này bao gồm:

+ Môi trường điều trị: sự yên tĩnh, đủ ánh sáng…

+ Bảo đảm cấp cứu chung.

+ Thuốc bình thần benzodiazepin là vô cùng cần thiết.

+ Đánh giá và điều chỉnh liên tục tình trạng mất cân bằng nước và điện giải.

+ Truyền tĩnh mạch dung dịch muối đẳng trương hoặc ringerlactat.

+ Theo dõi tim mạch, thở oxy.

+ Kiểm tra glucose máu.

+ Vitamin nhóm B liều cao, đặc biệt vitamin B1.

Thông thường, những bệnh nhân có biểu hiện bệnh lý, tình trạng tâm thần như vậy cần liên tục theo dõi, chăm sóc, như là đánh giá tình trạng khẩn cấp và điều trị các biến chứng do rượu.

BỆNH NÃO WERNICKE

– Bệnh não Wernicke là một rối loạn khởi phát cấp tính, chủ yếu do thiếu vitamin B1. Nó thường được phát hiện ở những bệnh nhân nghiện rượu, mặc dù nó không bị giới hạn ở nguyên nhân này. Cạn kiệt vitamin B1 có thể xảy ra trong những tình trạng ít phổ biến khác, bao gồm việc bị ép buộc hoặc tự nhịn đói, suy dinh dưỡng do chế độ ăn uống không đầy đủ hoặc kém hấp thu, những tình trạng liên quan đến hiện tượng nôn mửa kéo dài, suy thận mạn tính.

– Bệnh nhân mắc bệnh não Wernicke có ba đặc điểm lâm sàng bất thường ở mắt, trạng thái lú lẫn hoàn toàn và mất điều hòa; nhưng chỉ một phần ba số bệnh nhân mắc bệnh não Wernicke cấp tính có biểu hiện ba đặc điểm lâm sàng này.

Bệnh não Wernicke là gì? Những điều cần biết về bệnh não Wernicke là gì? Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

+ Sự bất thường ở mắt được biểu hiện: rung giật nhãn cầu theo chiều ngang và tê liệt các cơ. Cần lưu ý những bất thường dù ít xảy ra như phản xạ giác mạc chậm, sa mi mắt, đồng tử không đều. 

+ Tình trạng lú lẫn được đặc trưng bởi:

  • Lãnh cảm.
  • Nhận thức kém đối với các tình huống xảy ra ngay lập tức.
  • Mất định hướng về không gian.
  • Giảm chú ý, không có khả năng tập trung.

+ Mất điều hòa, mất cân bằng có thể được nhận thấy trong giai đoạn đầu của bệnh này và là do rối loạn tiền đình; mất điều hòa trên diện rộng cũng được nhận thấy trong các giai đoạn bán cấp và mạn tính của bệnh là do rối loạn chức năng tiểu não, có thể một mình hoặc kết hợp với rối loạn tiền đình.

– Những đặc điểm có liên quan khác như giảm thân nhiệt, hạ huyết áp… có thể được thêm vào ba đặc điểm trên và được cho là kết quả từ sự tham gia của vùng dưới đồi. Sự kích động, gây gổ, ảo giác, và những dấu hiệu tăng động thái quá cũng được xem xét.

– Việc chẩn đoán bệnh não Wernicke cần phân biệt bệnh não Wernicke từ hiện tượng mê sảng cấp tính thứ phát do thiếu oxy, tăng CO2 và nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương. Dáng đi mất cân bằng có thể do nhồi máu tiểu não, rối loạn thị giác cũng thể do viêm mạch máu hoặc nhồi máu. Các bác sĩ cũng cần phải lưu ý rằng mặc dù tình trạng hôn mê tương đối hiếm, nhưng chúng có thể là biểu hiện duy nhất của bệnh não Wernicke và có thể gây tử vong nếu không được điều trị.

– Điều trị tại khoa cấp cứu: do bản chất và biểu hiện lâm sàng của bệnh não Wernicke và những khó khăn trong việc đưa ra chẩn đoán lâm sàng, quá trình điều trị cần được tiến hành với tất cả các bệnh nhân, những người phụ thuộc vào rượu và những người có nguy cơ bị suy dinh dưỡng cao:

– Tiêm bắp vitamin B1 50 – 100mg. Sau lần tiêm đầu tiên, liều vitamin B1 hàng ngày là 50 – 100mg, tiêm bắp hoặc uống phụ thuộc vào tình trạng bệnh nhân.

+ Bổ sung điện giải, đặc biệt là magiê và kali nếu cần thiết.

+ Bổ sung vitamin tổng hợp nếu bệnh nhân bị suy dinh dưỡng mạn tính.

+ Cần lưu ý rằng việc truyền glucose cho bệnh nhân bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng có thể làm cạn kiệt nguồn vitamin B1 và có thể gây ra bệnh não Wernicke. Do vậy, bổ sung vitamin B1 nên được bắt đầu trước khi cho truyền glucose.

+ Chế độ ăn uống cân bằng nên được thực hiện càng sớm càng tốt. Bổ sung vitamin và điện giải cần được xem xét cùng với chế độ ăn cân bằng ban đầu; việc bổ sung có thể giảm dần nếu bệnh nhân tiếp tục uống bình thường và cải thiện các triệu chứng.

Việc xuất hiện dáng đi bất thường đòi hỏi phải có trợ giúp trong suốt giai đoạn đầu điều trị. Bệnh nhân có thể cần vật lý trị liệu để được hỗ trợ đi lại. Dáng đi bất thường có thể là vĩnh viễn, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của những biểu hiện ban đầu và sự kịp thời của liệu pháp điều trị.

Vì việc sử dụng rượu lâu dài là nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh não Wernicke, nên việc kiêng uống rượu sẽ mang lại kết quả điều trị tốt nhất.

HỘI CHỨNG KORSAKOFF

Nếu như việc suy giảm trí nhớ ở những bệnh nhân mắc bệnh não Wernicke thì tình trạng đó được gọi là hội chứng Wernicke – Korsakoff. Hội chứng này thường gặp sau giai đoạn cấp của bệnh não Wernicke, xuất hiện sau khi tình trạng lú lẫn bắt đầu.  

Tại sao sau khi say rượu bạn thường không nhớ chuyện gì xảy ra? - VnExpress Sức khỏe

Các bệnh nhân thường biểu hiện các đặc điểm mất trí nhớ ở cả trước và sau tình trạng mất trí.

Sự mất trí nhớ giai đoạn đầu là nghiêm trọng nhưng không đầy đủ, các bệnh nhân có thể nhắc lại một loạt các con số hoặc sự việc.

Điều trị: như trường hợp của bệnh não Wernicke, điều trị hội chứng Korsakoff đòi hỏi phải bổ sung vitamin B1. Bệnh nhân bị suy giảm trí nhớ phải có giám hộ hoặc chăm sóc vĩnh viễn.

RƯỢU GÂY RA RỐI LOẠN TÂM THẦN

Rối loạn tâm thần do rượu là một loại rối loạn tâm thần có biểu hiện ảo giác hoặc hoang tưởng, xảy ra trong những trường hợp uống nhiều rượu, trong đó có ngộ độc cấp tính và thường là một dấu hiệu cho thấy việc uống rượu kéo dài. Ảo giác thường là ảo giác thính giác, ảo giác thị giác và xúc giác cũng có thể xảy ra. Các triệu chứng tâm thần xuất hiện cùng với sự khởi đầu sử dụng rượu. Các triệu chứng kéo dài trong thời gian đủ dài (ví dụ 1 tháng) sau khi ngừng sử dụng. Rối loạn tâm thần không hoàn toàn xảy ra trong quá trình mê sảng, vì vậy cần phân biệt với hội chứng cai rượu nặng được gọi là chứng mê sảng.

– Điều trị: phần lớn các trường hợp rối loạn tâm thần do rượu thì kiêng rượu là biện pháp giải quyết tốt nhất. Sau khi ổn định bệnh lý, tiến hành đánh giá về đường hô hấp và hệ thần kinh, rối loạn tâm thần do rượu phải được điều trị trước tiên với việc sử dụng thận trọng benzodiazepin như:

+ Lorazepam, 1 – 2mg, uống thuốc viên hoặc dung dịch hoặc tiêm bắp.

+ Benzodiazepin 25 – 50mg uống thuốc viên hoặc tiêm bắp. Trong trường hợp rối loạn tâm thần lâu dài hoặc nếu bệnh nhân có nguy cơ gây ra tổn hại đến bản thân hoặc người khác, việc sử dụng thuốc chống loạn thần cao nên được xem xét (như haloperidol 5 – 10mg uống hoặc tiêm bắp, olanzapin 2,5 – 10mg uống hoặc tiêm bắp, ziprasidon 10 – 20mg tiêm bắp).

– Thuốc chống loạn thần có thể làm giảm ngưỡng co giật và không nên sử dụng để điều trị các triệu chứng cai rượu trừ khi thật sự cần thiết và sử dụng kết hợp với  benzodiazepin.

Điều trị loạn thần do rượu bao gồm: vitamin B1 100mg tiêm, sau đó tiếp tục bổ sung vitamin B1 100mg x 3 lần trong ngày, acid folic x 1mg và vitamin tổng hợp hàng ngày.

Cố định tay và chân có thể sẽ cần thiết nếu có sự nguy hiểm do bệnh nhân tấn công người khác hoặc tự hại mình.

CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN KHÁC DO RƯỢU

Rượu gây ra tình trạng lo lắng hoặc rối loạn giấc ngủ thường được xem xét riêng biệt nếu như các triệu chứng quá nhiều và nghiêm trọng. Các bác sĩ ở khoa cấp cứu cần nhận thức rằng hơn 50% số bệnh nhân bị rối loạn tâm thần do rượu cần phải quản lý từ 2 – 4 tuần để kiêng rượu mà không có sự can thiệp nào khác đến những rối loạn này.

Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột hiện đã kết hợp với GS.TS.BS Cao Tiến Đức – Phó chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam; Phó chủ tịch Hội chống động kinh Việt Nam; Uỷ viên Hội đồng chuyên môn Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương.

Sự kết hợp này sẽ tạo ra một nền tảng mới trong điều trị các bệnh lý lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học tại khu vực Tây Nguyên, giúp khách hàng gặp các vấn đề về tâm lý sớm được điều trị lấy lại cân bằng trong cuộc sống.

Để đăng ký khám chữa bệnh với các chuyên gia tại BUH, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900 1147

Để lại một bình luận