CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN THƯỜNG GẶP Ở VỊ THÀNH NIÊN VÀ THANH NIÊN (PHẦN 1)
Bài viết được chia sẻ bởi GS.TS.BS Cao cấp Cao Tiến Đức
1. Tổng quan các rối loạn tâm thần ở vị thành niên và thanh niên
Sức khỏe tâm thần không chỉ là trạng thái không có rối loạn tâm thần, mà còn bao gồm khả năng suy nghĩ, học hỏi, thích nghi với những áp lực bình thường trong cuộc sống, làm việc hiệu quả và có thể đóng góp cho cộng đồng.
Rối loạn tâm thần là tình trạng bất thường đủ nghiêm trọng về nhận thức, ảnh hưởng đến tâm trạng, suy nghĩ, hành vi của con người; gây ra đau khổ hay mất khả năng trong công việc và hoạt động xã hội quan trọng khác.
Theo nhiều nghiên cứu, có khoảng 20% trẻ em và thanh thiếu niên mắc một hoặc nhiều chứng rối loạn tâm thần. Khoảng 27,9% số thanh thiếu niên Hoa Kỳ từ 13 đến 17 tuổi có báo cáo đáp ứng các tiêu chí cho 2 rối loạn trở lên. Các nghiên cứu gần đây theo dõi trẻ em từ sơ sinh đến trưởng thành cũng chỉ ra rằng: Hầu hết các rối loạn sức khỏe tâm thần ở người trưởng thành bắt đầu từ thời thơ ấu và thanh thiếu niên. Ngoài ra, các gen liên quan đến rối loạn sức khỏe tâm thần đã được báo cáo là có biểu hiện cao trong suốt cuộc đời.
Một nghiên cứu khác ở trẻ 8-14 tuổi ở Mỹ cho thấy: 3,7% có rối loạn trầm cảm; 2,1% có rối loạn hành vi; 0,7% mắc rối loạn lo âu lan tỏa hoặc rối loạn hoảng sợ; 0,1% có rối loạn ăn uống, chán ăn hoặc chứng ăn vô độ.
UNICEF: Cứ 7 trẻ vị thành niên, có 1 em rối loạn tâm thần
Với giới trẻ, bệnh lý tâm thần có thể dễ dàng mắc phải do sử dụng các loại ma túy tổng hợp. Đáng lưu ý hơn, sự cô lập với trẻ nhỏ, thói quen sử dụng internet quá nhiều của các gia đình cũng là yếu tố gây nên một số chứng bệnh về tâm thần như: rối loạn chú ý, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn sự thích ứng, trầm cảm ở trẻ.
Đặc biệt, khi người trẻ gặp phải các vấn đề về sức khỏe tâm thần nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nguy cơ bỏ học sớm, vi phạm pháp luật, lạm dụng chất kích thích, chất gây nghiện, thậm chí có hành vi tự sát. Cho đến nay, người ta thấy rằng chỉ có 20% những người có vấn đề về sức khỏe tâm thần đi khám và chỉ 20% trong số đó đi khám đúng chuyên khoa. Kết quả nghiên cứu “Sức khỏe tâm thần vị thành niên Việt Nam” do Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện gần đây cũng chỉ ra: Trong 12 tháng, 21,7% số trẻ vị thành niên Việt Nam có vấn đề về sức khỏe tâm thần, trong đó 3,3% đáp ứng các tiêu chí đối với một rối loạn. Phổ biến nhất là lo âu (18,6%); tiếp theo là trầm cảm (4,3%) và 8,4% vị thành niên có vấn đề về sức khỏe tâm thần tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ hoặc tư vấn cho các vấn đề về cảm xúc và hành vi. Ngoài ra, có đến 27% trẻ vị thành niên có vấn đề về sức khỏe tâm thần; 1,4% trẻ vị thành niên cho biết có ý định tự sát.
Năm 2016, một khảo sát học sinh từ 16 -18 tuổi ở Hà Nội cho biết: có 21,4% trẻ em gái và 7,9% trẻ nam báo cáo có ý nghĩ tự sát trong 12 tháng trước đó. Các yếu tố dẫn đến ý định tự sát ở tuổi vị thành niên bao gồm: bị lạm dụng và bỏ mặc từ khi còn bé, chứng kiến bạo lực gia đình hoặc bạo lực hàng xóm, xâm hại tài sản, bắt nạt trên mạng và tình trạng dân tộc thiểu số. Một nghiên cứu của Mỹ cho thấy tỷ lệ tử vong do tự sát (từ 10 đến 14 tuổi) ở nữ giới tăng từ 0,5% năm 1999 lên 3,1% vào năm 2019; ở nam giới từ 1,9% lên 3,1%. Tự sát là nguyên nhân thứ 2 gây tử vong ở trẻ từ 10 đến 24 tuổi.
Cha mẹ nên quan tâm, chia sẻ nhiều hơn với con để phòng tránh tốt tình trạng trẻ bị trầm cảm vì áp lực gia đình
Vì vậy, vấn đề sức khỏe tâm thần trong bảo vệ, chăm sóc sức khỏe vị thành niên và thanh niên rất đáng được quan tâm.
2. Một số rối loạn tâm thần thường gặp
2.1. Rối loạn trầm cảm
Rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi nỗi buồn hoặc khó chịu nghiêm trọng và dai dẳng, kéo dài trên 2 tuần và thường xảy ra ở khoảng 5% vị thành niên, gây ảnh hưởng đáng kể đến các chức năng của cơ thể.
Đây là một bệnh lý cảm xúc, thể hiện sự ức chế ở tất cả các mặt hoạt động tâm thần (ức chế cảm xúc, ức chế tư duy, ức chế về vận động). Sự ức chế này trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng sinh hoạt, hiệu suất lao động và học tập của người bệnh.
Triệu chứng: Các biểu hiện trầm cảm ở vị thành niên tương tự như ở người lớn nhưng có liên quan đến những mối quan tâm điển hình của trẻ em, như học tập và chơi đùa.
- Trẻ có thể không giải thích được cảm xúc bên trong hoặc tâm trạng của mình. Nhiều trẻ trước đây hoạt động tốt bỗng trở nên kém đi ở trường học, rút khỏi xã hội, hoặc có hành vi phạm pháp. Điều này thậm chí còn đáng sợ hơn khi trẻ hoạt động quá mức và hành vi hung hăng, chống lại xã hội.
- Ở trẻ khuyết tật trí tuệ, chứng rối loạn trầm cảm hoặc rối loạn khí sắc khác có thể biểu hiện như các triệu chứng của cơ thể và rối loạn hành vi.
Rối loạn trầm cảm có thể khiến trẻ mất tập trung, sa sút trong học tập
Hậu quả: Trầm cảm có thể thuyên giảm sau 6 đến 12 tháng, nhưng nếu không được thăm khám và điều trị đúng cách sẽ gây ra những hệ lụy nghiêm trọng như:
- Khả năng tập trung chú ý, tập trung tư duy của trẻ vị thành thiên/ thanh thiếu niên bị suy giảm dẫn đến sa sút trong học tập, không thể hoàn thành tốt công việc.
- Quan hệ giao tiếp bị hạn chế, thờ ơ và đánh mất nhiều mối quan hệ quan trọng
- Xuất hiện nhiều triệu chứng rối loạn của cơ thể như rối loạn hệ tiêu hóa, hệ tim mạch, nội tiết…
- Lạm dụng chất gây nghiện và có ý định tự sát.
- Đối với tình trạng trầm cảm nặng, có thể xuất hiện các triệu chứng loạn thần
Cách chẩn đoán và điều trị:
Việc chẩn đoán chứng rối loạn trầm cảm có thể dựa trên các triệu chứng lâm sàng và tiền sử bao gồm các yếu tố gây bệnh như: bạo lực gia đình, nghiện, lạm dụng tình dục và có các tác dụng phụ của thuốc bằng cách sử dụng thang HAMD, DASS-21 để sàng lọc.
Điều trị:
Đối với vị thành niên, cách điều trị ban đầu thường là dùng thuốc chống trầm cảm cộng với liệu pháp tâm lý.
Thuốc chống trầm cảm cần được dùng theo đúng chỉ định của bác sĩ điều trị
Đối với thanh thiếu niên (như người lớn), sự kết hợp của liệu pháp tâm lý và thuốc chống trầm cảm thường có hiệu quả cao hơn phương thức sử dụng đơn lẻ. Ngoài ra, phương pháp kích thích từ xuyên sọ có thể mang lại hiệu quả cao trong điều trị, không cần phẫu thuật đặt điện cực vào não, không gây mê an thần và sốc điện.
Cũng như ở người lớn, nếu trẻ không được chữa trầm cảm đúng hướng, bệnh có thể tái phát ở giai đoạn trưởng thành với mức độ nặng nề hơn. Vì vậy, trẻ em và vị thành niên nên được điều trị trong ít nhất 1 năm sau khi các triệu chứng đã hết. Hầu hết các chuyên gia khuyến cáo rằng trẻ em sẽ trải qua ≥ 2 giai đoạn trầm cảm chủ yếu và nên được điều trị vô thời hạn.
2.2. Rối loạn lo âu lan tỏa
Rối loạn lo âu lan tỏa là một trạng thái lo lắng gia tăng và dai dẳng, đôi lúc là sợ hãi và kinh sợ quá mức.
Triệu chứng: Trẻ mắc rối loạn lo âu lan tỏa thường biểu hiện qua những triệu chứng cụ thể gồm:
– Khó tập trung, chú ý, luôn thấy đầu óc trống rỗng
– Lo lắng dai dẳng về những việc nhỏ nhặt
– Không thể thư giãn, luôn tăng động, cảm thấy bồn chồn, bế tắc
– Ngủ kém, đổ mồ hôi quá nhiều, kiệt sức
– Dễ mệt mỏi, khó thở, tim đập nhanh.
– Sợ khoảng trống hoặc không gian kín
– Hay phàn nàn về sự khó chịu của cơ thể (ví dụ, đau dạ dày, đau cơ, nhức đầu, đau vùng trước tim, khó thở, các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật: vã mồ hôi, nôn, buồn nôn, mạch huyết áp dao động…).
Sợ khoảng trống hoặc không gian kín là một trong những triệu chứng đáng lo ngại ở trẻ bị rối loạn lo âu lan tỏa
Nguyên nhân:
Nguyên nhân chính xác gây rối loạn lo âu lan tỏa vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, một số yếu tố sau đây đã được xác định có liên quan đến chứng bệnh này:
– Ám ảnh thời thơ ấu: từng bị lạm dụng.
– Di truyền: gia đình có người từng mắc chứng rối loạn lo âu
– Trải qua cú shock hay những cơn sang chấn tâm lý do gặp biến cố
– Tiền sử lạm dụng ma túy hoặc rượu.
Ngoài ra, môi trường và hoàn cảnh sống căng thẳng trong gia đình từ hàng tuần đến hàng tháng: cha mẹ thất nghiệp, thường xuyên phải lo lắng về tài chính, tương lai,… cũng là yếu tố khiến căng thẳng trở nên trầm trọng hơn.
Chẩn đoán
Rối loạn lo âu lan tỏa được chẩn đoán ở thanh thiếu niên có các triệu chứng lo âu nổi bật và làm suy giảm mà không tập trung đủ để đáp ứng các tiêu chí cho một rối loạn cụ thể như rối loạn lo âu xã hội hoặc rối loạn hoảng sợ.
Chẩn đoán rối loạn lo âu lan tỏa giống với các rối loạn lo âu khác. Đó là dựa vào biểu hiện lâm sàng, sau đó soi chiếu với tiêu chí chẩn đoán của DSM hoặc ICD. Ngoài khai thác và thống kê triệu chứng, bác sĩ sẽ tìm hiểu các yếu tố nguy cơ (môi trường sống, các yếu tố gây stress, tiền sử gia đình, tiền sử cá nhân,…) để khoanh vùng các khả năng có thể xảy ra.
– Lo lắng quá mức khiến bệnh nhân khó kiểm soát.
– Các triệu chứng xuất hiện nhiều ngày hơn 6 tháng.
– Các triệu chứng gây ra đau khổ nghiêm trọng hoặc làm suy giảm chức năng xã hội hoặc ở trường.
Các tiêu chí trên phải đi kèm với ≥ 1 trong các điều kiện sau:
– Cảm giác bồn chồn hoặc căng thẳng hoặc bực dọc.
– Có thể sử dụng thang Zung, thang rối loạn lo âu chung-7 [GAD-7] hoặc DASS-21 để sàng lọc.
– Dễ bị mệt mỏi, khó tập trung, cáu gắt, căng cơ, rối loạn giấc ngủ. Đôi khi rối loạn lo âu lan tỏa có thể bị nhầm lẫn với rối loạn tăng hoạt động giảm chú ý (ADHD).
Điều trị: Liệu pháp thư giãn, thuốc chống lo âu, thường là các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI).
2.3. Phản ứng với stress và rối loạn sự thích ứng
Stress là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi hàng ngày cũng như trong các phương tiện truyền thông. Stress đôi khi được dùng để chỉ một nguyên nhân, một tác nhân kích thích làm cơ thể khó chịu, ngoài ra stress còn được dùng để chỉ hậu quả của tác nhân công kích này, bao gồm:
– Phản ứng stress cấp
– Rối loạn stress sau sang chấn
– Rối loạn sự thích ứng, các phản ứng với stress trầm trọng khác.
a/ Phản ứng stress cấp
Đây là một trạng thái cấp tính của stress, gây đau khổ và khó chịu cho bản thân người bệnh vad được đặc trưng bởi một rối loạn tâm thần nhất thời, rất trầm trọng, phát triển khi thể chất và tinh thần đặc biệt căng thẳng; có thể mất đi trong vòng vài giờ hoặc vài ngày.
Nguyên nhân:
Nguyên nhân do các stress cấp diễn và đủ lớn hoặc kéo dài. Khi trẻ phải trải qua những sang chấn đủ lớn như: người thân mất, bị đe dọa tính mạng, thảm họa, tai nạn… hay những căng thẳng mâu thuẫn kéo dài, áp lực học tập, bị giam cầm… đặc biệt là khi thay đổi tâm sinh lý như dậy thì, suy nhược cơ thể…
Về lâm sàng: Phản ứng với stress xuất hiện ngay sau chấn thương tâm thần mạnh, có thể thay đổi từ kích động sang bất động trong một thời gian ngắn, bao giờ cũng kèm theo tình trạng rối loạn thần kinh thực vật…
Thời gian kéo dài từ vài phút đến vài ngày, có thể gặp thể bất động hoặc thể kích động.
Có kèm theo các rối loạn thần kinh thực vật như: vã mồ hôi, mạch nhanh, co cứng cơ, đái dầm…
Chẩn đoán: Bệnh xuất hiện ngay hoặc sau một thời gian ngắn hậu stress. Các triệu chứng loạn thần có liên quan trực tiếp và phản ánh sâu sắc tình trạng của stress.
Điều trị: Khi trẻ có dấu hiệu phản ứng stress cấp, ba mẹ cần cách ly trẻ khỏi môi trường gây chấn thương tâm lý càng sớm càng tốt bằng các liệu pháp hỗ trợ tâm lý, dùng thuốc bình thần, thuốc chống trầm cảm và nâng đỡ cơ thể. Vì nếu được điều trị đúng và kịp thời, trẻ sẽ khỏi bệnh hoàn toàn và nhanh chóng.
b/ Rối loạn stress sau sang chấn:
Rối loạn stress sau sang chấn (PTSD) hay còn gọi là rối loạn căng thẳng sau chấn thương, là tình trạng bệnh lý tâm thần xảy ra sau khi trẻ chứng kiến hoặc trải qua một sự kiện đáng sợ, có tính chất đe dọa hoặc thảm họa đặc biệt và thường xuất hiện từ vài tuần đến vài tháng, tối đa là dưới 6 tháng sau stress.
Chứng rối loạn stress sau sang chấn có thể tiến triển thuận lợi (khỏi bệnh) hoặc dao động (tái phát tăng hoặc giảm bệnh). Một số ít trường hợp có thể kéo dài và để lại biến đổi nhân cách ở trẻ.
Hội chứng rối loạn stress sau sang chấn ảnh hưởng đáng kể đến tâm lý người bệnh
Lâm sàng: Các triệu chứng lâm sàng của rối loạn stress phát triển có liên quan đến yếu tố chấn thương tâm lý quá mạnh, tác động trực tiếp tới người bệnh.
Triệu chứng: Dấu hiệu điển hình của rối loạn stress sau sang chấn ở trẻ.
- “Mảnh hồi tưởng” là trạng thái trẻ nhớ lại ký ức sang chấn lặp đi lặp lại, các giấc mơ thức hoặc giấc mơ ngủ.
- Trẻ thường “sống lại” cơn ác mộng với trạng thái “tê cóng” và cùn mòn trong cảm xúc
- Xa lánh mọi người, mất thích thú, né tránh những ký ức gợi lại nỗi chấn thương, Khó thích nghi trở lại với môi trường xung quanh.
Chẩn đoán: Trẻ có yếu tố stress trong khoảng thời gian 6 tháng với triệu chứng điển hình liên quan đến “mảnh hồi tưởng” về stress kèm theo các rối loạn cảm xúc và rối loạn thần kinh thực vật.
Điều trị: Bằng liệu pháp tâm lý, thuốc giải lo âu và rối loạn giấc ngủ.
c/ Rối loạn sự thích ứng:
Rối loạn sự thích ứng là trạng thái đau khổ chủ quan và rối loạn ngắn hạn về mặt cảm xúc và hành vi khi trẻ phải đối mặt với các yếu tố gây căng thẳng và những thay đổi lớn trong cuộc đời.
Đặc điểm lâm sàng nổi bật của chứng rối loạn sự thích ứng là các rối loạn về khí sắc, thường xuất hiện trong vòng 1 tháng sau khi xảy ra sự kiện gây stress và kéo dài không quá 6 tháng.
Triệu chứng:
- Buồn rầu, lo lắng, cảm giác mất khả năng đối phó
- Trẻ xuất hiện hành vi chống xã hội như thách thức hoặc bốc đồng, bao gồm phá hoại và trễ nải việc học hành
- Hay bồn chồn lo lắng hoặc căng thẳng quá mức
- Rối loạn nhịp tim, co giật, run rẩy hoặc các triệu chứng thực thể khác.
Bệnh rối loạn hành vi ở trẻ em khiến bé có xu hướng bạo lực, hung hãn hơn so với bạn đồng trang lứa
Chẩn đoán: Có yếu tố gây sang chấn trong vòng 3 tháng trước đó, biểu hiện bằng các rối loạn cảm xúc và hành vi liên quan đến stress, bao gồm cả yếu tố thuộc về nhân cách và tiền sử bệnh của trẻ. Bệnh lý có thể sử dụng DASS-21 để sàng lọc.
Điều trị: Tâm lý liệu pháp là hình thức trị liệu phụ thuộc vào nhu cầu của trẻ, tập trung tháo gỡ các tác nhân gây căng thẳng và giải quyết vấn đề khúc mắc, giúp điều trị rối loạn giấc ngủ, bình thần, tăng cường thể trạng, nâng cao sức đề kháng bằng liệu pháp tâm lý cá nhân hoặc kết hợp với liệu pháp gia đình.
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột hiện đã kết hợp với GS.TS.BS Cao Tiến Đức – Phó chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam; Phó chủ tịch Hội chống động kinh Việt Nam; Uỷ viên Hội đồng chuyên môn Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương.
Sự kết hợp này sẽ tạo ra một nền tảng mới trong điều trị các bệnh lý lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học tại khu vực Tây Nguyên, giúp khách hàng gặp các vấn đề về tâm lý sớm được điều trị lấy lại cân bằng trong cuộc sống.
Để đăng ký khám chữa bệnh với các chuyên gia tại BUH, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900 1147