CẤP CỨU CÁC RỐI LOẠN LO ÂU CẤP TÍNH

 Bài viết được biên soạn bởi GS.TS.BS Cao cấp Cao Tiến Đức

1. KHÁI NIỆM LO ÂU

Lo âu là trạng thái bệnh nhân đến phòng khám trong tâm trạng lo lắng hoặc hoảng loạn và phàn nàn rằng họ bị một bệnh trầm trọng đe dọa đến tính mạng. Khi được bác sĩ trấn an và đảm bảo thì sự lo âu sẽ giảm. Có nhiều nguyên nhân gây rối loạn lo âu, trước tiên phải loại trừ nguyên nhân do bệnh nội khoa. Cần nhấn mạnh việc phải điều trị lâu dài cho người bệnh.

Lo âu biểu hiện bằng sự đau buồn hoặc một trạng thái gây nên bởi nỗi sợ nguy hiểm hoặc rủi ro. Trong tâm thần học: lo âu là trạng thái lo sợ và căng thẳng tâm lý, xuất hiện trong một số dạng suy nhược tâm thần. Khi bị bệnh lý lo âu tức là phản ứng lại một kích thích bên trong mãnh liệt và quá mức.

−       Lo lắng: nỗi đau khổ tinh thần về nguy cơ hoặc điều bất hạnh có thể xảy ra; e sợ, bứt rứt, bồn chồn không yên.

−       Sợ hãi: một tín hiệu cảnh báo để đáp ứng với mối đe dọa bên ngoài.

Lo âu có thể phân biệt với sợ hãi ở chỗ sự sợ hãi là một phản ứng rõ ràng với một mối đe dọa mà chắc chắn đến từ bên ngoài, trong khi đó lo âu là một tín hiệu cảnh báo phát sinh từ một xung đột nội tâm.

Hội chứng rối loạn lo âu (Anxiety) là gì? Nguyên nhân và triệu chứng | Genetica®

Lo âu được mặc nhiên công nhận là biểu hiện của sự tồn tại và là một cơ chế thích nghi. Trong suốt thời gian bị kích thích mạnh, chẳng hạn như trở về nhà trong nỗi ám ảnh có thể bị gặp nguy hiểm, điều đó được chờ đợi mặc dù chỉ thoáng qua, đáp ứng với tình huống căng thẳng, đặc trưng bởi cường giao cảm. Khi cường giao cảm không phù hợp, rối loạn không chỉ thoáng qua nữa, nó có thể gây rối loạn các chức năng và sự thích nghi của cá nhân, sau đó có thể dẫn đến rối loạn lo âu.

Các biểu hiện khi bị cường giao cảm

Những bệnh nhân thường không được giới thiệu đến phòng khám cho đến khi họ đã bị rối loạn lo âu một thời gian dài, hoặc họ đã bị cơn hoảng sợ kịch phát. Không nên bỏ qua sự bất lực và đau khổ do rối loạn lo âu gây ra, bởi chúng có thể gây rối loạn chức năng xã hội, nghề nghiệp và sức khỏe chung của bệnh nhân. Bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân cần thận trọng trong việc hướng dẫn tiếp tục chăm sóc sau cơn hoảng sợ ban đầu.   

Theo Hội Tâm thần học Việt Nam (2002), tỷ lệ rối loạn lo âu là 2,7% dân số. Xấp xỉ 25% dân số Mỹ bị lo âu bệnh lý trong suốt cuộc đời. Trên thực tế tỷ lệ này có thể cao hơn vì rất nhiều bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng của rối loạn lo âu không tìm cách điều trị. Như vậy rối loạn lo âu là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất.

Tỷ lệ rối loạn lo âu ở hai giới có sự khác biệt rõ ràng; tỷ lệ giữa nam và nữ xấp xỉ 2:1. Những nghiên cứu về tiền sử gia đình đã chỉ ra rằng yếu tố di truyền làm tăng khả năng bị rối loạn lo âu. Tỷ lệ mắc bệnh này tăng lên 4 đến 8 lần ở những người có quan hệ bậc 1 với bệnh nhân rối loạn lo âu.

Yếu tố môi trường, chẳng hạn như ly hôn, thay đổi việc làm hay trường học, có thể đóng một vai trò trong nguy cơ bị rối loạn lo âu. Chấn thương và các sự kiện căng thẳng khác (như bị sỉ nhục hay người thân bị chết), có thể dẫn đến rối loạn stress sau sang chấn.

2. KHÁM XÉT

Thầy thuốc nên nói với bệnh nhân với giọng nói vừa nhẹ nhàng, vừa trấn tĩnh khi thăm khám (tránh gây cho bệnh nhân ấn tượng rằng bạn cũng đang lo lắng về tình trạng lo âu của mình), vì những bệnh nhân bị rối loạn hoảng sợ tin rằng họ bị một bệnh nghiêm trọng có thể dẫn đến cái chết. Cần tìm hiểu đầy đủ về tiền sử bệnh của bệnh nhân nếu có thể. Những thông tin bổ sung (với sự đồng ý của bệnh nhân) từ bác sĩ chính, các thành viên trong gia đình và bạn bè có thể hữu ích.

Rối loạn lo âu có chữa được không? Những điều cần biết

Khi khám bệnh nên khám cả các triệu chứng cơ thể và những than phiền của bệnh nhân. Cần nhớ rằng có nhiều bệnh nội khoa và rối loạn tâm thần có thể có lo âu như một thành phần hay triệu chứng. Việc điều trị rối loạn lo âu do bệnh nội khoa cần tiến hành sau khi điều trị bệnh nội khoa. Nếu cần thiết có thể chuyển bệnh nhân đến chuyên khoa thích hợp.   

3. CHẨN ĐOÁN

Các chẩn đoán có thể xem xét ở những bệnh nhân có biểu hiện rối loạn lo âu bao gồm: Rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn hoảng sợ, ám ảnh sợ xã hội, phản ứng stress cấp, rối loạn stress sau sang chấn, rối loạn ám ảnh nghi thức.

3.1. Những bệnh nội khoa có thể gây ra triệu chứng lo âu

3.1.1. Các bệnh nội tiết

−       Cường giáp

−       Thiểu năng giáp

−       Cường năng tuyến thượng thận

−       Hạ đường huyết

−       Rối loạn hoạt động tuyến yên

−       Rối loạn  chức năng tuyến cận giáp

−       Nam tính hóa ở nữ

−       Hội chứng tiền kinh nguyệt

3.1.2. Các bệnh tim mạch

−       Rối loạn nhịp tim

−       Các bệnh thiếu máu

−       Thiểu năng tuần hoàn

−       Hạ huyết áp

−       Tăng huyết áp

−       Suy tim sung huyết

−       Đau ngực cấp tính

−       Nhồi máu cơ tim

−       Đau thắt ngực

3.1.3. Bệnh thần kinh

−       Bệnh mạch máu não

−       U não

−       Viêm não

−       Co giật

−       Đau nửa đầu

−       Xuất huyết dưới nhện

−       Chấn thương sọ não kín

−       Bệnh xơ cứng rải rác

−       Bệnh Wilson

−       Rối loạn tiền đình

−       Chứng mất trí

−       Mê sảng

−       Bệnh Huntington

−       Động kinh tâm thần vận động

−       Bệnh thùy thái dương

3.1.4. Bệnh đường hô hấp

−       Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

−       Viêm phổi

−       Tăng thông khí phổi

−       Bệnh ngừng thở khi ngủ

−       Hen

−       Viêm phế quản cấp và mạn tính

3.1.5. Rối loạn chuyển hóa

−       Thiếu vitamin

−       Rối loạn chuyển hóa porphyrin

−       Bệnh Pellagra

−       Urê huyết tăng

−       Hạ calci huyết

−       Hạ kali huyết

3.1.6. Bệnh hệ thống

−       Lupus ban đỏ hệ thống

−       Viêm khớp dạng thấp

−       Viêm động mạch thái dương

−       Viêm sụn sườn

−       Bệnh tự miễn

−       Đau xơ cơ

−       Dị ứng

3.1.7. Ngộ độc

−       Cafein

−       Amphetamin

−       Kim loại nặng

−       Thuốc co mạch và thuốc cường giao cảm

−       Phosphat có nguồn gốc hữu cơ

−       Cồn

−       Thuốc phiện

+       Phencyclidin

+       Cocain

+       Ecstasy

3.1.8. Nhiễm trùng và các quá trình khác

−       Nhiễm khuẩn huyết

−       Hội chứng u có tế bào ưa bạc

−       Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẫn

−       AIDS

−       Bệnh u hệ thống ác tính

−       Viêm nội tâm mạc bán cấp do vi khuẩn

−       Xuất huyết tiêu hóa

3.1.9. Các rối loạn khác

−       Hội chứng ruột kích thích

−       Rối loạn tiêu hóa

−       Bệnh trào ngược dạ dày (GERD)

−       Bệnh Zona

−       Hội chứng ngoại tháp

3.2. Các rối loạn tâm thần liên quan đến rối loạn lo âu hoặc cơn hoảng sợ

−       Rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

−       Trầm cảm phối hợp.

−       Rối loạn ăn uống.

−       Rối loạn ám ảnh nghi thức.

−       Rối loạn nhân cách.

−       Rối loạn phân liệt cảm xúc.

−       Tâm thần phân liệt.

−       Rối loạn dạng phân liệt.

3.3. Rối loạn lo âu lan tỏa

−       Lo âu quá mức hoặc những ngày lo âu nhiều hơn những ngày không lo âu trong 6 tháng qua.

−       Khó khăn trong việc kiểm soát lo lắng hoặc lo âu.

−       Lo lắng hoặc lo âu được kết hợp với ba hoặc nhiều đặc điểm sau:

+       Mất ngủ, cảm thấy bực tức hoặc căng thẳng.

+       Dễ mệt mỏi.

+       Khó tập trung.

+       Dễ nổi cáu.

+       Tăng trương lực cơ.

+       Rối loạn giấc ngủ.

Rối loạn lo âu lan tỏa: Những điều cần biết | Vinmec

3.4. Rối loạn hoảng sợ

Đặc điểm chủ yếu của rối loạn hoảng sợ là sự có mặt của những cơn hoảng sợ tái diễn kế tiếp bởi những lo lắng bền vững (ít nhất 1 tháng) về việc sẽ có những cơn hoảng sợ khác.

Rối loạn hoảng sợ phải làm gì và cần phân biệt với bệnh nào?

3.4.1.  Hoảng sợ kịch phát

Hoảng sợ kịch phát được định nghĩa là một khoảng thời gian riêng, đột ngột khó chịu dữ dội hoặc sợ hãi đỉnh điểm trong vòng 10 phút hoặc ít hơn và bao gồm 4 hoặc nhiều hơn trong các triệu chứng sau:

−       Hồi hộp, nhịp tim nhanh, trống ngực.

−       Vã mồ hôi.

−       Run.

−       Cảm giác nghẹt thở.

−       Khó thở, thở nông.

−       Đau hoặc khó chịu ở ngực.

−       Buồn nôn hoặc đau bụng.

−       Cảm giác chết lặng, ù tai.

−       Hệ thần kinh giao cảm không ổn định như ớn lạnh, nóng ran.

−       Có cơn hoa mắt hoặc ngất, cảm giác loạng choạng hoặc chóng mặt.

−       Giải thể nhân cách, thực tại.

−       Sợ rằng sẽ mất đi ký ức.

−       Sợ bị mất tự chủ.

−       Sợ chết.

Sự thật sau cơn hoảng loạn - VnExpress Sức khỏe

Cơn hoảng sợ kịch phát có thể xuất hiện mà không có tác nhân nào và không có lý do rõ ràng. Các biến chứng của rối loạn hoảng sợ có thể bao gồm những thay đổi sinh lý liên quan đến cường giao cảm. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ tự sát ở những bệnh nhân này tương đối cao.

3.4.2. Rối loạn hoảng sợ với chứng ám ảnh sợ khoảng trống

Điểm đặc trưng của ám ảnh sợ khoảng trống là sự lo lắng về việc ở những nơi hoặc những tình huống mà ở đó bệnh nhân khó khăn hoặc lúng túng khi tìm lối thoát hay sự giúp đỡ nếu xuất hiện cơn hoảng sợ hoặc các triệu chứng giống cơn hoảng sợ. Sự lo lắng về những gì sẽ xảy ra có thể dẫn đến giảm hòa nhập xã hội.

3.4.3. Ám ảnh sợ xã hội

Ám ảnh sợ xã hội được đặc trưng bởi sự sợ hãi dai dẳng những hoàn cảnh hoặc hoạt động có tính chất xã hội, những nơi mà sự xấu hổ, sỉ nhục có thể xảy ra.

3.4.4. Rối loạn stress cấp

Đặc điểm quan trọng của rối loạn stress cấp là sự phát triển của lo âu, tăng kích thích, phân ly (được đặc trưng bởi cảm giác chủ quan hoặc giải thể nhân cách), xuất hiện trong vòng 1 tháng sau khi có một chấn thương tâm lý.

3.4.5. Rối loạn nghi thức ám ảnh: Đặc điểm quan trọng nhất là tình trạng đau khổ hay suy nhược rõ ràng gây nên bởi sự tái diễn của những nghi thức ám ảnh.

4. ĐIỀU TRỊ

Lo âu là một biểu hiện thường gặp của các rối loạn tâm thần như tâm thần phân liệt hay rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Trong những trường hợp này, nếu bệnh nhân đang dùng thuốc an thần, nên loại trừ trường hợp có biểu hiện ngoại tháp gây ra lo âu. Việc điều trị nên tập trung vào rối loạn tâm thần bị nghi ngờ hơn là chỉ tập trung làm giảm triệu chứng lo âu.

4.1. Liệu pháp hóa dược

– Dùng benzodiazepin để giải lo âu trong một thời gian ngắn. Khi dùng benzodiazepin kéo dài thì khả năng dung nạp thuốc tăng nên có thể cần dùng liều cao hơn.              

– Fluoxetin (prozac) nên bắt đầu với liều thấp, khoảng 10 đến 20mg mỗi ngày.

– Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin/norepinephrin (SNRIs): Duloxetin (cymbalta), venlafaxine, mirtazapine (4 vòng trong cấu trúc hóa học) nhưng tác dụng lâm sàng lại tương tự các thuốc SNRI nên được xếp vào nhóm này.

– Thuốc chống trầm cảm ba vòng

4.2.  Liệu pháp không dùng thuốc

– Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT).

– Liệu pháp giải mẫn cảm

– Liệu pháp phản hồi sinh học

Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột hiện đã kết hợp với GS.TS.BS Cao Tiến Đức – Phó chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam; Phó chủ tịch Hội chống động kinh Việt Nam; Uỷ viên Hội đồng chuyên môn Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương.

Sự kết hợp này sẽ tạo ra một nền tảng mới trong điều trị các bệnh lý lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học tại khu vực Tây Nguyên, giúp khách hàng gặp các vấn đề về tâm lý sớm được điều trị lấy lại cân bằng trong cuộc sống.

Để đăng ký khám chữa bệnh với các chuyên gia tại BUH, xin vui lòng liên hệ Hotline 1900 1147

Để lại một bình luận