Ths. BS Phạm Thành Trung (1)
(1) Đơn vị Da liễu & Thẩm mỹ da – Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Nám da vùng má là một rối loạn sắc tố thường gặp ở phụ nữ đặc trưng bởi dát tăng sắc tố đối xứng ở vùng mặt. Có nhiều phương pháp điều trị nám được nghiên cứu và sử dụng, trong số đó, thuốc uống điều trị nám đã được nghiên cứu gần đây. Các bằng chứng khoa học về hiệu quả, cơ chế của phương pháp này sẽ được tóm tắt và trình bày dưới đây.
Tổng quan nám da và phương pháp điều trị
Nám da là gì?
Nám da là một bệnh lý rối loạn sắc tố mắc phải thường gặp ở phụ nữ, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cuộc sống và làm giảm sự tự tin. Bệnh đặc trưng bởi các dát tăng sắc tố đối xứng ở gò má, trán, trên môi, cằm, một số ít mảng nám xuất hiện ở ngực, thân mình.
Hình ảnh của nám da khi thực hiện phân tích soi da bằng công nghê VISA tại Đơn vị da liễu chuyên sâu BUH
Cơ chế sinh bệnh học của nám má thì chưa được hiểu rõ hoàn toàn, một vài nguyên nhân được xác định bao gồm: tiếp xúc tia UV và ánh sáng khả kiến, mang thai, sử dụng hormone bổ sung, yếu tố gia đình.
Tổng quan điều trị nám
Mục tiêu của điều trị nám là làm mờ các sang thương đã có và ngăn chặn việc tái phát của nám.
Điều trị nám da hiện tại bao gồm việc sử dụng các thuốc bôi, thuốc uống cũng như các thủ thuật như peel da hoặc các liệu pháp ánh sáng như laser, IPL.
Các liệu pháp tại chỗ bao gồm: chất làm trắng, retinoid, corticosteroid, chống nắng, tranexamic acid thoa và các kem kết hợp. Thông thường, peel da bằng acid glycolic, acid salicylic hoặc acid trichloracetic với nồng độ phù hợp cũng được sử dụng.
Các liệu pháp ánh sáng bao gồm: ánh sáng xung mạnh cường độ cao (IPL), laser QS – Nd: YAG, PDL, fractional.
Các thuốc uống toàn thân có thể kể đến tranexamic và một số chiết xuất thực vật.
Tranexamic acid đường uống trong điều trị nám
Cơ chế tác dụng và dược động học
Tranexamic acid (TXA) được sử dụng để ngăn chảy máu thông qua con đường tác động chuyển hóa plasmin và từ đó ngăn chặn phản ứng ly giải fibrin. Tác dụng này đã được phát hiện và sử dụng từ hơn 50 năm trước.
Năm 1979, Sadako tình cờ phát hiện ra tác dụng của tranexamic acid trong điều trị nám khi thực hiện nghiên cứu về điều trị mày đay mạn tính bằng tranexamic acid. Kể từ đó, hàng hoạt nghiên cứu đã được thực hiện nhằm chứng minh hiệu quả và tìm ra liều tối ưu của tranexamic acid trong điều trị nám má.
Hình 1: Cơ chế của tranexamic acid
Tranexamic acid ức chế hoạt động của men tyrosinase của tế bào melanocyte ở thượng bì thông qua việc khóa lại con đường chuyển hóa của hệ thống plasminogen/plasmin. Thêm nữa, việc ức chế plasminogen gắn với tế bào sừng cũng làm giảm việc tạo ra các chất trung gian gây viêm như prostaglandin – được biết đến có vai trò trong việc kích thích tế bào melanocyte. Ngoài ra, tranexamic acid cũng ngăn chặn hoạt động của plasmin liên quan tia UV, giảm hoạt động của tế bào mast và ức chế các yếu tố tăng trưởng gắn fibrin thông qua đó làm giảm hoạt động của mạch máu và số lượng tế bào mast ở lớp trung bì.
Các nghiên cứu ứng dụng tranexamic acid
Bắt đầu với nghiên cứu của Sadako năm 1979 ở Nhật Bản, sự cải thiện tình trạng nám được ghi nhận trong 4 tuần khi sử dụng liều 1.5 g mỗi ngày kết hợp với vitamin B, C và E. Kể từ đó, mở đường cho các nghiên cứu về sử dụng tranexamic tại chỗ, tiêm và đường uống.
Năm 2001, Zhu và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu mô tả có đối chứng giữa hai nhóm: một nhóm sử dụng 250mg tranexamic acid 2 lần một ngày và một nhóm sử dụng giả dược. Kết quả ở nhóm sử dụng tranexamic acid có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê so với nhóm không sử dụng. Hơn 20% ở nhóm sử dụng có cải thiện >95% so với ban đầu.
Năm 2011, Cho và cộng sự đã công bố nghiên cứu về TXA đầu tiên bằng tiếng Anh. 500mg TXA mỗi ngày được sử dụng cùng với liệu pháp ánh sáng xung mạnh IPL. Nghiên cứu mù đôi này gồm 51 trường hợp bị nám má chia thành 2 nhóm: một nhóm sử dụng IPL và uống TXA, một nhóm chỉ sử dụng IPL. Cả 2 nhóm đều sử dụng kem chống nắng phổ rộng trong suốt quá trình nghiên cứu. Sau đó thang điểm đánh giá diện tích và độ nặng nám má được ghi nhận (mMASI). Ở nhóm thực hiện điều trị có TXA thêm vào, thì điểm mMASI trung bình giảm từ 11,33 ± 7,07 xuống 6,21 ± 5,04. Còn ở nhóm chứng, điểm mMASI trung bình giảm từ 11,70 ± 6,72 xuống 8,93 ± 5,89. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
Một nghiên cứu lớn nhất được công bố vào năm 2016 của Lee và cộng sự. Trong nghiên cứu hồi cứu này, có 561 bệnh nhân được điều trị với TXA 250mg 2 lần một ngày. Trong đó, 95% người tham gia được xác định là bị kháng trị với điều trị nám ( các phương pháp trước đây không có sự cải thiện rõ ràng). Trong nghiên cứu này, không phải tất cả mọi người đều sử dụng chống nắng. Sự thay đổi màu sắc của sang thương da đã được theo dõi trong vòng 2 tháng điều trị, có tới 89,7% số bệnh nhân có cải thiện. Tác dụng phụ được báo cáo ở 7,1% số người tham gia với triệu chứng thường gặp là đau đầu nhẹ thoáng qua.
Một điều thú vị là TXA dường như không làm cải thiện các tình trạng tăng sắc tố khác như tàn nhang, đốm nâu hay tăng sắc tố sau viêm.
Hình 2: BN nữ, 40 tuổi, bị nám má. Được điều trị bằng TXA 250mg 2 lần/ ngày trong 6 tháng. Tình trạng nám má giảm nhưng đốm nâu hầu như không thay đổi.
Tính an toàn của việc sử dụng TXA
Để đảm bảo tính an toàn cho bệnh nhân, thông thường thì những đối tượng có nguy cơ tăng đông như đột quỵ, huyết khối, u mạch máu sẽ được loại trừ khỏi các nghiên cứu. Ở người bình thường, khi thực hiện uống liều thấp TXA thì các xét nghiệm đông máu như PT, APTT không thấy có thay đổi đáng kể.
Liều thuốc TXA được dùng trong trường hợp chống chảy máu là 1000mg, uống 3 lần một ngày. Trong khi TXA trong điều trị nám má chỉ được dùng với liều thấp như 250mg uống 2 lần một ngày. Tác dụng phụ thường gặp là các triệu chứng liên quan tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy…và một số triệu chứng như đau đầu nhẹ thoáng qua.
Các loại thuốc đường uống khác
Chiết xuất cây dương xỉ
Chiết xuất cây dương xỉ là một chất chống oxy hóa được sử dụng như một yếu tố chống nắng toàn thân. Tuy rằng chiết xuất này được báo cáo có hiệu quả trong việc tránh tác động của tia UV, nhưng khi thực hiện các nghiên cứu lâm sàng thì không cho thấy hiệu quả có ý nghĩa nếu là phương pháp điều trị nám đơn nhất.
Do vậy, có vẻ việc sử dụng chiết xuất cây dương xỉ sẽ được sử dụng với vai trò là tác nhân hỗ trợ cho việc điều trị nám má khi kết hợp với các phương pháp khác.
Viên tổng hợp
Một nghiên cứu của Handog và cộng sự thực hiện năm 2015, sử dụng viên uống tổng hợp bao gồm vitamin C, vitamin A, vitamin E 2 lần một ngày kết hợp chống nắng cho thấy sự cải thiện đáng kể của điểm số MASI.
Kết luận về nám da
Nám má là một rối loạn sắc tố điều trị khó khăn và thường xuyên tái phát. Do vậy, việc phối hợp nhiều phương pháp là cần thiết để kiểm soát và tránh việc tái lại của nám. Tranexamic acid liều thấp sử dụng liên tục trong 3-6 tháng đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc điều trị nám má. Tuy nhiên, việc sử dụng cần được cân nhắc bởi bác sĩ điều trị.
Để được tư vấn và thăm khám về tình trạng nám da, bạn có thể liên hệ với chúng tôi tại đây: m.me/dalieuthammydabuh
Tài liệu tham khảo
- Bala HR, Lee S, Wong C, Pandya AG, Rodrigues M. Oral Tranexamic Acid for the Treatment of Melasma: A Review. Dermatol Surg. 2018 Jun;44(6):814-825.
- Wu S, Shi H, Wu H, Yan S, et al. Treatment of melasma with oral administration of tranexamic acid. Aesthet Plast Surg 2012;36:964–70.
- Tse TW, Hui E. Tranexamic acid: an important adjuvant in the treatment of melasma. J Cosmet Dermatol 2013;12:57–66.
- Maeda K, Tomita Y. Mechanism of the inhibitory effect of tranexamic acid on melanogenesis in cultured human melanocytes in the presence of keratinocyte-conditioned medium. J Health Sci 2007; 53:389–96.
- Maeda K, Naganuma M. Topical trans-4- aminomethylcyclohexanecarboxylic acid prevents ultraviolet radiationinduced pigmentation. J Photochem Photobiol B 1998;47:136–41.
- Li D, Shi Y, Li M, Liu J, et al. Tranexamic acid can treat ultraviolet radiation-induced pigmentation in Guinea pigs. Eur J Dermatol 2010; 20:289–92.
- Tan AW, Sen P, Chua SH, Goh BK. Oral tranexamic acid lightens refractory melasma. Australas J Dermatol 2017;58:e105–8.
- Bastaki M, Nelli EE, Dell’Era P, Rusnati M, et al. Basic fibroblast growth factor–induced angiogenic phenotype in mouse endothelium a study of aortic and microvascular endothelial cell lines. Arteriosclerosis Thromb Vasc Biol 1997;17:454–64.
- Reichel CA, Lerchenberger M, Uhl B, Rehberg M, et al. Plasmin inhibitors prevent leukocyte accumulation and remodeling events in the postischemic microvasculature. PLoS One 2011;6:e17229.
- Padhi T, Pradhan S. Oral tranexamic acid with fluocinolone-based triple combination cream versus fluocinolone-based triple combination cream alone in melasma: an open labeled randomized comparative trial. Indian J Dermatol 2015;60:520.
- Cho HH, Choi M, Cho S, Lee JH. Role of oral tranexamic acid in melasma patients treated with IPL and low fluence QS Nd:YAG laser. J Dermatolog Treat 2013;24:292–6.