TỔNG QUAN VỀ NHIỄM NẤM CANDIDA
Ths. Bs Phạm Thành Trung (1)
(1) Đơn Vị Da Liễu Và Thẩm Mỹ Da – Bệnh Viện Đại Học Y Dược Buôn Ma Thuột
LỜI NÓI ĐẦU
Những đặc điểm bệnh nhiễm trùng do Candida sp có thể thay đổi từ tổn thương tại chỗ cho đến lan rộng tới nhiều cơ quan. Mặc dù Candida được cho là một phần của hệ sinh vật thường trú tại ruột và hệ sinh dục của con người, loài này vẫn có khả năng xâm nhập và gây bệnh khi có sự mất cân bằng trong hệ khuẩn tự nhiên. Loài Candida thường gây bệnh nhất là Candida albicans. C.albicans là vi sinh vật thường thấy ở trong khoang hầu họng, ống tiêu hóa và âm đạo của người, nhưng trong trường hợp có thể gây ra nhiễm trùng cơ hội theo sau một sự mất cân bằng của hệ khuẩn tự nhiên, hoặc sự tổn thương của lớp bảng vệ niêm mạc hoặc là sự suy giảm miễn dịch. C.albicans có mặt như là hệ khuẩn thường trú ở 50% người bình thường.
Vi nấm học
Candida có khoảng 200 loài. Chúng có mặt ở cả loài người, và các loài vật khác, cả chim, sâu bọ, giáp xác, cá, trong chất thải của động vật, ở cây, nấm , trong các sản phẩn có nồng độ đường cao hoặc trong sữa, đất, trong nước sạch, nước biển và kể cả trong không khí.
Có khoảng 30 loài Candida có thể gây ra nhiễm trùng trên người. Phổ biến nhất là C.albicans, C.glabrata, C.krusei, C.parasilosis và C.trophicalis. C.parasilosis được xác nhận là một loại dị thể và có thể chia thành 3 hình thái khác nhau như là 3 loài khác biệt: C.parasilosis, C.metapsislosis và C.orthopsilosis.
Quá trình phát triển, hình thái
Không giống với tên gọi vi nấm lưỡng hình, hình thái học của Candida khá là giống nhau khi quan sát trong điều kiện invitro hay invivo. Candida glabrata mọc lên nhỏ, hình elip và có hạt men. Thỉnh thoảng, những chồi của C.glabrata có thể tách ra để tạo cây mới bằng cách tự cắt đứt. Một cách rõ ràng thì C.albicans, C.krusei, C.parasislosis và C.tropicalis có các chồi tế bào và thường lớn hơn so với C.glabrata, chúng cũng có thể phát triển thành nhiều nhánh, đặc biệt là khi tiếp xúc với các môi trường đặc như là mô ở người hoặc thạch cấy.
C.krusei và C. parasilosis có thể coi như lưỡng hình vì chúng vừa có dạng chồi và dạng sợi giả. C.albicans và C.tropicalis có thể tạo thành dạng sợi thật (thêm vào dạng chồi và sợi giả) do vậy có thể coi là loài đa hình.
Thông thường sự hiện diện của chồi men và sợi giả ở trong mô nhiễm thì thường liên hệ tới nhiễm candida. Tuy nhiên, một hình tái nhiễm trùng tương tự có thể xảy ra bởi một số loài nấm mốc cơ hội ( Purpureocilium lilacinum). Những nấm mốc này có thể chẩn đoán nhầm với một nhiễm Candida nếu sử dụng mô học để chẩn đoán.
Xét nghiệm vi nấm
Candida sp được tìm thấy khi cấu trong vòng một tới hai ngày. C.glabrata thì ngoại lệ, cần nhiều ngày hơn để mọc.
Chẩn đoán xác định phân lập vi nấm hạt men dựa vào sự kết hợp hình tái học và kiểm tra sinh lý học. Ví dụ, kết quả xác định có C.albicans có thể được thiết lập bằng quan sát trực tiếp. Trong khi nhiều phòng thí nghiệm sử dụng các phương pháp xác định truyền thống để xác định nấm men, thì một vài công cụ mới đã được sử dụng. Việc sử dụng công nghệ laser có thể xác định nấm men trong vòng một vài phút. Thêm vào nữa, hệ thống T2Candida có thể xác định Candida sp trong máu trong khoảng 4 giờ.
Immune respone
Thành tế bào của Candida sp có thể gợi ra cả miễn dịch thể dịch và miễn dịch tế bảo của vật chủ trong quá trình lây nhiễm. Thêm vào nữa, proteinase ngoài màng của C.albicasns kích thích đám ứng miễn dịch tại chỗ và toàn thân. Cân bằng miễn dịch tế bào thì quan trọng cho vật chủ chống lại Candida, nhưng là một phản hồi bởi tỷ lệ lưu hành nhiễm trùng cao hơn ở những người mà hệ miễn dịch tế bào bị tổn thương, nhưng cơ chế chính xác của đáp ứng này vẫn chưa được hiểu rõ. Interleurtkin 12 xuất hiện và đóng vai trò quan trọng trong sự tiến triển của Th1 đáp ứng với C.albicans ở chuột; IL-12 tăng nhạy với nhiễm trùng trong đường ruột và với những nhiễm trùng tái phát. Vai trò của interferon- gamma có vẻ còn phức tạp
- IFN-gamma ở chuột nhạy cảm với nhiễm Candida
- Nhiễm trùng hoặc xuất hiện của IL-12 gây ra đáp ứng Th1 ở chuột liên quan với việc tạo ra IFN -gamma.
- IL-12 xuất hiện ở những con chuột bị nhiễm trùng hệ thống dẫn tới bệnh gây tử vong, trong khi việc thêm IFN-gamma tạo ra hiệu quả bảo vệ ở 70 phần trăm động vật.
Mặt khác IL 10 xuất hiện khi nhiễm hệ thống mà không có ở chuột chỉ nhiễm ở đường tiêu hóa.
Bạch cầu đa nhân trung tính cũng đóng vai trò trong việc chống lại Candida. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng yếu tố kích thích G-C tăng khả năng phá hủy của tế bào đa nhân trung tính với tơ giả của C.albicans, có thể có liên quan với IFN-gamma. Một nghiên cứu kiểm tra nông độ IgA tiết trong nước bọt và giảm hoạt động của tế bào bạch cầu tại ống tuyến nước bọt của người bị nhiễm Candida hầu họng so với nhóm khỏe mạnh.
Vai trò của đáp ứng thể dịch trong việc ngăn chặn quá trình gây bệnh của nhiễm Candida vẫn chưa rõ và còn nhiều tranh cãi. Tuy nhiên các kháng thể đơn dòng và kháng thể đa dòng đã cho thấy hiệu quả trên chuột bị nhiễm Candida. Kháng thể IgG đã cho thấy có kích hoạt bổ thể thông qua cả hai con đường cổ điển và nhanh. Những phát hiện này đề nghị về việc phát triển vaccine hoặc kháng thể bảo vệ ngắn hạn. Thụ thể Toll-like chủ yếu là TLR2 và TLR4 đóng vai trò then chốt trong nhận diện C.albicans và hoạt hóa đáp ứng của hệ miễn dịch. Thêm vào nữa, thụ thể Dectin -1 trên thành tế bào vật chủ cũng có vai trò nhận diện beta-glucan của vách tế bào nấm.
Nhiễm Candida
-
Candida hầu họng
Là một nhiễm trùng tại chỗ thường thấy ở trẻ em, người già hoặc bệnh nhân đang điều trị kháng sinh, hóa trị hoặc xạ trị vùng đầu cổ và những người có suy giảm miễn dịch mắc phải như là AIDS. Bệnh nhân không có nước bọt hoặc điều trị glucocorticoid hít cho bệnh hen suyễn cũng có nguy cơ.
Triệu chứng thường thấy là cảm giác ngứa vùng miệng, mất vị giác và thỉnh thoảng bị đau khi ăn và nuốt. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không có triệu chứng, khi mà bệnh nhân đeo rang giả thì thường bị đau khi cố gắng mang hàm giả vào. Những bệnh nhân sử dụng ức chế miễn dịch thì thường có nhiễm Candida ở nắp thanh môn.
Chẩn đoán được hướng tới khi có hiện diện của mảng trắng ở niêm mạc miệng, lưỡi, khẩu cái hoặc là ở hầu hay ở dưới răng giả với những mảng phù đỏ.
Chẩn đoán được xác định bằng cách cạo sang thương và soi nhuộm gram hoặc KOH. Chồi nấm men có hay không sợi nấm giả thì có thể được tìm thấy.
Nhiễm Candida vùng sinh dục
Là một trong những thể nhiễm candida thường gặp nhất. Tình trạng này thường gắn với sự tăng nồng độ estrogen như là uống thuốc tránh thai đường uống và kháng sinh. Kháng sinh, glucocorticoids, đái tháo đường, nhiễm HIV, sử dụng dụng cụ tránh thai là yếu tố nguy cơ.
Chẩn đoán lâm sàng nhiễm Candida vùng sinh dục thường là ngứa và khí hư. Khám lâm sàng thường thấy cổ tử cung sưng, đỏ và âm đạo khí hư. Một vài bệnh nhân nhiễm nguyên phát Candida glabrata có ít khí hư và chỉ có đỏ ở âm đạo khi khám.
Chẩn đoán nhiễm nấm âm đạo do candida thường chỉ cần dựa trên lâm sàng, nhưng xác định dễ dàng bằng quan sát chồi nấm men khi chuẩn bị với KOH.
Nhiễm Candida da niêm mạn tính
Nhiễm candida da niêm mạn tính là một hội chứng hiếm và thường diễn ra trong giai đoạn còn nhỏ. Biểu hiện lâm sàng ở những bệnh nhân này có thể trầm trọng, tái diễn, nấm móng, nhiễm sinh dục và sang thương da mạn tính. Những sang thương da có thể có dày sừng, mài xuất hiện ở mặt, da đầu và cánh tay.
Nhiễm Candida máu – Nhiễm trùng xâm lấn do candida
Sự hiện diện của nấm Candida trong máu. Những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và những bệnh nhân ở trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt có nguy cơ cao nhất của nhiễm candida máu.
Triệu chứng lâm sàng đa dạng rất nhiều từ sốt nhẹ tới đầy đủ các triệu chứng của sốc nhiễm trùng như các nhiễm trùng nghiêm trọng khác. Bằng chứng lâm sàng cho sự xuất hiện của Candida trong máu bao gồm sang thương mắt đặc hiệu, sang thương da ít phổ biến hơn, absceses vùng cơ. Sang thương da có vẻ xuất hiện bất ngờ như 1 chùm mụn mủ không đau trên nền hồng ban, có thể xuất hiện bất cứ chỗ nào trên cơ thể. Sang thương da có thể xuất hiện như 1 nốt mủ nhỏ có thể dễ dàng bỏ qua cho đến những sẩn mủ có thể từ vài centimetters đường kính và có thể xuất hiện ở vùng trung tâm.
Thêm vào những thay đổi ở vùng màng thì dấu hiện suy đa cơ quan có thể xảy ra. Một số nghiên cứu cho thấy sự lan rộng của các vi abscess xuất hiện ở thận, gan, tim, lách phổi và não.
Vi sinh vật thường trú ở hệ tiêu hóa
Các loài Candida là một phần của hệ vi sinh vật thường trú trong ống tiêu hóa. Phân lập được Candida trong những sản phẩm thải như phân thì không có ý nghĩa là có nhiễm trùng đang diễn ra. Do vậy, sẽ không cần điều trị.
Tổng kết
Các loài Candida là những vi nấm thường thấy trong toàn bộ hệ sinh thái ở cả động vật và thực vật. Trong hơn 200 chủng Candida thì có khoảng 30 chủng Candida gây bệnh trên người.
Những đặc điểm lâm sàng khi nhiễm nấm có thể dao động từ nhiễm khu trú tại màng nhầy cho tới nhiễm trùng lan tỏa tới toàn bộ hệ cơ quan. Mặc dù Candida vẫn được xem là một loài vi sinh vật thường trú ở hệ tiêu hóa người, nhưng chúng vẫn có khả năng xâm lấn và gây bệnh khi sự cân bằng vi sinh bị mất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Naglik JR, Challacombe SJ, Hube B. Candida albicans secreted aspartyl proteinases in virulence and pathogenesis. Microbiol Mol Biol Rev 2003; 67:400.
- Brandt ME, Lockhart SR. Recent Taxonomic Developments with Candida and Other Opportunistic Yeasts. Curr Fungal Infect Rep 2012; 6:170.
- Barnett JA, Payne RW, Yarrow D. Yeasts: Characteristics and Identification, 2nd ed, Cambridge University Press, Cambridge 1990.
- Meyer AS, Payne RW, Yarrow D. Candida Berkhout. In: The Yeasts: A Taxonomic Study, 4th ed, Kurtzman CP, Fell JW (Eds), Elsevier, New York 1998. p.454.